Các chuyên gia Mỹ vừa phát hiện một loài ong mới kiếm ăn theo cách hết sức bất thường tại thành phố New York: liếm mồ hôi người để sống.
Một loài ong mới đang vi vu tại thành phố có biệt danh “quả táo lớn” của Mỹ. Loại côn trùng nhỏ xíu, cỡ bằng hạt mè, chủ yếu kiếm ăn trên mồ hôi người, theo nghĩa đen. Ong mồ hôi tại NewYork Bắc Mỹ là quê nhà của hàng ngàn loài ong bản địa, nhưng từ lâu chúng đã bị lãng quên trước đồng loại ong mật nhập cư, vốn cho mật và sáp ngon ngọt hơn. Do vậy, khi bắt được những chú ong kỳ lạ này tại công viên Prospect ở Brooklyn vào năm 2010, nhà khoa học Ascher phải mất nhiều thời gian mới xác định được danh tính của nó, nhờ sự hỗ trợ của chuyên gia Jason Gibbs tại Đại học Cornell. Khác với đồng loại châu Âu, ong mồ hôi không làm ra nhiều mật, nhưng hiếm khi đốt người. Chúng rất ưa thích các con mồi là những người hay đổ mồ hôi nhiều, theo chuyên gia Ascher. |
Theo Thanh Niên |
Tuesday, May 1, 2012
Monday, April 30, 2012
Hàm lượng hoóc-môn “âu yếm” oxytocin trong máu có thể giúp dự đoán tình yêu của cặp đôi nào bền hơn.
Theo các nhà khoa học, lượng oxytocin của cơ thể trong những tháng yêu đầu có thể đóng vai trò như dấu hiệu dự đoán độ dài của một mối quan hệ
Kết luận trên được đưa ra sau khi các nhà nghiên cứu tại Đại học Bar-Ilan (Israel) tiến hành khảo sát 43 đối tượng độc thân và 60 cặp đôi ở độ tuổi 20, mỗi cặp mới qua lại với nhau khoảng 3 tháng.
Mỗi cặp được phỏng vấn riêng rẽ từng người về suy nghĩ, lo lắng và kỳ vọng của mình vào mối quan hệ mới. Sau đó, họ cùng ngồi lại và thảo luận về những trải nghiệm đáng nhớ của cả hai.Trong lúc này, các nhà khoa học tiến hành xét nghiệm mẫu máu của tất cả thành viên, kể cả các đối tượng độc thân.
Kết quả cho thấy các cặp đôi có hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn những người độc thân. Cặp đôi nào càng thân mật càng có hàm lượng oxytocin cao.
Những cặp đôi đã sống chung có hàm lượng oxytocin cao nhất và có xu hướng duy trì ở mức độ ổn định trong 6 tháng tiếp theo.
Cặp đôi nào càng thân mật, hàm lượng oxytocin càng cao. Những cặp đã sống chung có hàm lượng oxytocin cao nhất. |
Theo các nhà khoa học, oxytocin và những biểu hiện trong tình yêu có nhiều tác động qua lại. Cặp đôi có nhiều cử chỉ thân mật như cầm tay, liếc mắt đưa tình có hàm lượng oxytocin trội hơn. Ngược lại, lượng oxytocin tăng càng củng cố thêm sự quấn quýt, bền chặt của một mối quan hệ.
Biểu hiện này cho thấy lượng oxytocin của cơ thể trong những tháng yêu đầu có thể đóng vai trò như chỉ số dự đoán độ dài của một mối quan hệ.
Tuy nhiên, do không thể tiến hành lấy mẫu máu của các thành viên tại thời điểm trước khi yêu, nghiên cứu vẫn chưa thể làm rõ oxytocin quyết định tuổi thọ tình yêu hay tình cảm nồng cháy giữa các cặp đôi đẩy hàm lượng oxytocin tăng và nhờ vậy, mối quan hệ của họ càng thêm khăng khít.
Nguồn xaluan
Động vật học không xương sống | ||||||||||||||
| ||||||||||||||
| ||||||||||||||
Giáo trình Động vật học không xương sống đối với trường Cao đẳng Sư phạm vừa là giáo trình cơ sở giúp sinh viên tiếp thu một lĩnh vực của Sinh học, vừa là nội dung trực tiếp giảng dạy ở Trung học cơ sở.
Để đảm bảo yêu cầu của một giáo trình cơ sở, đối với một đối tượng đa dạng chiếm hầu hết giới động vật (chỉ trừ 2 ngành Nửa dây sống và Có dây sống) và rải trên nhiều cấp độ tổ chức, chúng tôi trình bày các đặc điểm cơ bản về cấu tạo, chức năng và hệ thống đặc trưng cho từng Ngành hoặc từng Lớp động vật. Các đại diện chọn làm ví dụ chỉ để chứng minh cho các đặc điểm cơ bản đó. Tác giả hi vọng rằng nắm vững kiến thức cơ bản và khái quát của một số không lớn các Ngành và các Lớp Động vật không xương sống sẽ là hành trang tối thiểu cần thiết, giữ vai trò định hướng và phát huy tư duy độc lập của giáo sinh trong cuộc đời hành nghề tương lai, khi phải giải quyết những vấn đề liên quan đến sự biểu hiện muôn màu muôn vẻ của giới động vật trong tự nhiên. Để đảm bảo yêu cầu của một giáo trình mà nội dung được sử dụng trực tiếp trong giảng dạy ở Trung học cơ sở, chúng tôi đã cố gắng sử dụng nhiều đại diện có ở nước ta làm dẫn chứng và có đánh giá tầm quan trọng lí thuyết và thực tiễn của từng nhóm động vật. Nội dung và phương pháp trình bày nhằm phát huy năng lực tự học, tự tìm tòi của người học trong thiên nhiên đa dạng và trong vốn kiến thức phong phú đã được tích lũy trong các tài liệu viết ở trong và ngoài nước. Mở đầu mỗi chương và mỗi bài thực hành đều có mục tiêu để người học có thể chủ động thực hiện yêu cầu của phần đó. Kết thúc từng chương có phần tóm tắt nội dung, câu hỏi và các tài liệu đọc thêm nhằm giúp người học nắm vững và mở rộng kiến thức. Giáo trình có hai phần: phần lí thuyết và phần thực hành. Xuất phát từ yêu cầu phát huy tiềm năng của người học, trong nội dung thực hành, ngoài các bài tiến hành trực tiếp trên các động vật đại diện còn có các bài đề cập tới cơ sở vật chất cần thiết cho thực hành động vật (bài Mở đầu), tổ chức góc sinh giới (bài 4) và thực tập ngoài thiên nhiên (bài 10) để sinh viên có thể biết cách tổ chức và chủ động tìm hiểu sinh học của các loài đại diện. Mỗi bài thực hành đều có nội dung bắt buộc và nội dung mở rộng. Phần chuẩn bị dụng cụ, mẫu vật từ thiên nhiên Việt Nam và các thao tác thực hành đã được quan tâm đặc biệt nhằm chuẩn bị tiềm lực cho người học thực hiện chương trình thực hành ở Trung học cơ sở. Khi sử dụng phần lí thuyết người học có thể dùng thêm các hình vẽ về các đối tượng đại diện được giới thiệu trong phần thực hành và ngược lại. Về mặt thuật ngữ, chúng tôi mạnh dạn dùng các thuật ngữ tiếng Việt để thay thế cho các thuật ngữ Hán Việt trước kia vẫn dùng. Trong trường hợp chưa tìm được thuật ngữ tiếng Việt thích hợp chúng tôi tạm dùng các thuật ngữ đã quen dùng từ trước hoặc dùng tiếng La tinh. Một số thuật ngữ hiện chưa thống nhất, chúng tôi có ghi chú thêm tiếng Anh ở lần đầu sử dụng cũng như việc ghi chú tên khoa học đối với các đơn vị phân loại. Trong mục Tài liệu đọc thêm sau mỗi chương, chúng tôi chỉ giới thiệu các tài liệu dễ kiếm, phần lớn mới xuất bản, có nhiều khả năng hiện hữu trong thư viện các trường Cao đẳng Sư phạm. Hình vẽ trong sách chủ yếu là các hình vẽ lại hoặc ghép lại từ nhiều nguồn, được ghi cụ thể trong phần Nguồn hình ở cuối sách. Trong quá trình biên soạn giáo trình này, chúng tôi được sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp ở bộ môn Động vật học của các trường Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội); Cao đẳng Sư phạm Hải Dương; Phân viện nghiên cứu biển Hải Phòng... và các góp ý bổ sung của GS. TSKH. Đặng Ngọc Thanh. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn. Phân công biên soạn giáo trình này: Thái Trần Bái: Phần lí thuyết Nguyễn Văn Khang: Phần thực hành. Trong giáo trình không khỏi còn những thiếu sót về nội dung cũng như về trình bày, chúng tôi rất mong được các bạn đọc góp ý kiến.
Các tác giả
|
Một nhóm các nhà khoa học quốc tề vừa phát hiện một loại gene có khả năng làm chậm sự lây lan của khối ung thư tuyến tụy, mở đường cho việc điều trị một trong những căn bệnh ung thư nguy hiểm nhất.
Sau khi phát hiện gene có tên USP9X trong một nghiên cứu về ung thư tuyến tụy ở chuột, một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã nhận ra chúng có chức năng tương tự ở người.
“Chúng tôi đang nghiên cứu chức năng của gene này trên những bệnh nhân ung thư tuyến tụy và thấy rằng chúng đã phần nào làm biến mất các tế bào ung thư”, David Tuveson cho AFP biết. “Các bệnh nhân ung thư tuyến tụy có ít USP9X sẽ chết rất nhanh sau khi phẫu thuật và hoặc bị di căn (lan rộng như ung thư) vào giai đoạn cuối”.
Các nhà khoa học trước đó đã biết USP9X có mặt trong tất cả các tế bào của người song không ai biết khả năng ức chế ung thư của nó, Tuveson cho biết.
Ngoài USP9X, còn có thêm 3 gene khác cũng có chức năng tương tự song sự vắng mặt của USP9X mới chính là nguyên nhân gây di căn khiến những bệnh nhân ung thư tuyến tụy nhanh chóng tử vong.
Phát hiện có ý nghĩa “đánh thức gene USP9X bằng thuốc” như một bộ điều biến biểu sinh, các nhà khoa học nói thêm.
96% bệnh nhân ung thư tuyến tụy chết vì căn bệnh này trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán, một trong những tỷ lệ sống sót thấp nhất của bệnh ung thư. Chẩn đoán bệnh ở giai đoạn đầu là rất khó vì vậy bệnh thường chỉ được phát hiện sau khi đã lan rộng.
Song Hà (Theo AFP)
Sau khi phát hiện gene có tên USP9X trong một nghiên cứu về ung thư tuyến tụy ở chuột, một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã nhận ra chúng có chức năng tương tự ở người.
“Chúng tôi đang nghiên cứu chức năng của gene này trên những bệnh nhân ung thư tuyến tụy và thấy rằng chúng đã phần nào làm biến mất các tế bào ung thư”, David Tuveson cho AFP biết. “Các bệnh nhân ung thư tuyến tụy có ít USP9X sẽ chết rất nhanh sau khi phẫu thuật và hoặc bị di căn (lan rộng như ung thư) vào giai đoạn cuối”.
Các nhà khoa học trước đó đã biết USP9X có mặt trong tất cả các tế bào của người song không ai biết khả năng ức chế ung thư của nó, Tuveson cho biết.
Ngoài USP9X, còn có thêm 3 gene khác cũng có chức năng tương tự song sự vắng mặt của USP9X mới chính là nguyên nhân gây di căn khiến những bệnh nhân ung thư tuyến tụy nhanh chóng tử vong.
Phát hiện có ý nghĩa “đánh thức gene USP9X bằng thuốc” như một bộ điều biến biểu sinh, các nhà khoa học nói thêm.
96% bệnh nhân ung thư tuyến tụy chết vì căn bệnh này trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán, một trong những tỷ lệ sống sót thấp nhất của bệnh ung thư. Chẩn đoán bệnh ở giai đoạn đầu là rất khó vì vậy bệnh thường chỉ được phát hiện sau khi đã lan rộng.
Song Hà (Theo AFP)
Phát hiện này được công bố bởi các nhà nghiên cứu thuộc hai trường đại học McMaster và Arkon. Họ đã phát hiện ra các chủng vi khuẩn tồn tại trong hang động Lechuguilla chưa từng tiếp xúc với con người này đều có khả năng đề kháng tự nhiên với những loại thuốc kháng sinh đang được sử dụng.
Theo nghiên cứu thì tất cả các loài vi khuẩn ở đây đều có khả năng đề kháng ít nhất là một loại kháng sinh, mặt khác một số được tìm thấy có khả năng đề kháng tới 14 loại kháng sinh. Nghiên cứu về sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc sẽ nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ khám phá này bởi vì các dạng vi khuẩn này có thể được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng không thể chữa trị hiện nay.
Hang động Lechuguilaa nằm ở Vườn quốc gia Carlsbad Cavern là một khu vực giới hạn từ khi các nhà nghiên cứu khoa học phát hiện ra nó vào năm 1986. Với độ sâu 1604 feet (489m) và bao quanh bởi đá không thấm nước - điều đó có nghĩa là nó có thể mất đến 10.000 năm để có thể đạt được độ sâu nhất hiện tại. Trong một môi trường như vậy mà các loài vi khuẩn lại có thể kháng được thuốc thực sự là vô cùng kì lạ.
“Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng các loài vi khuẩn này có thể vài triệu năm tuổi, dù vậy chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu trong vòng 70 năm trở lại đây” - giám đốc Gerry Wright, Viện Nghiên cứu bệnh truyền nhiễm Michael G. DeGroote cho biết. “Điều quan trọng là phát hiện này sẽ giúp chúng ta tìm ra cách để ngăn ngừa sự gia tăng các bệnh nhiễm trùng và tìm được phương pháp chữa trị”.
Theo Genk, Gizmag
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ vừa được công bố hôm thứ Năm (26/4), quả việt quất và dâu tây sẽ giúp làm chậm quá trình suy giảm nhận thức ở phụ nữ cao tuổi.
Nghiên cứu dựa trên một cuộc khảo sát tiến hành trên 16.000 phụ nữ độ tuổi 70 từ năm 1976 đến năm 2011. Kết quả cho thấy, những phụ nữ cao tuổi ăn nhiều quả mọng trong đó có việt quất và dâu tây thì quá trình suy giảm nhận thức diễn ra chậm hơn 2,5 năm so với phụ nữ khác do loại quả này rất giàu Flavonoid, một chất chống oxy hóa.
Flavonoid ngoài ra cũng được tìm thấy trong táo, trà, rượu vang đỏ, và hành tây. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng chúng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tim mạch và ung thư.
“Chúng tôi có thể cung cấp được bằng chứng dịch tễ học đầu tiên rằng những quả mọng có thể làm chậm tiến trình làm suy giảm nhận thức ở phụ nữ cao tuổi”. Elizabeth Devore, bác sỹ tại ĐH Y Harvard ở Boston, Massachussetts, cho biết.
“Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa y tế cộng đồng quan trọng. Điều này sẽ giúp điều chỉnh chế độ ăn uống khá đơn giản để bảo vệ chức năng não ở người cao tuổi”.
Song Hà (Theo Channelnewsasia)
Nghiên cứu dựa trên một cuộc khảo sát tiến hành trên 16.000 phụ nữ độ tuổi 70 từ năm 1976 đến năm 2011. Kết quả cho thấy, những phụ nữ cao tuổi ăn nhiều quả mọng trong đó có việt quất và dâu tây thì quá trình suy giảm nhận thức diễn ra chậm hơn 2,5 năm so với phụ nữ khác do loại quả này rất giàu Flavonoid, một chất chống oxy hóa.
Flavonoid ngoài ra cũng được tìm thấy trong táo, trà, rượu vang đỏ, và hành tây. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng chúng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tim mạch và ung thư.
“Chúng tôi có thể cung cấp được bằng chứng dịch tễ học đầu tiên rằng những quả mọng có thể làm chậm tiến trình làm suy giảm nhận thức ở phụ nữ cao tuổi”. Elizabeth Devore, bác sỹ tại ĐH Y Harvard ở Boston, Massachussetts, cho biết.
“Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa y tế cộng đồng quan trọng. Điều này sẽ giúp điều chỉnh chế độ ăn uống khá đơn giản để bảo vệ chức năng não ở người cao tuổi”.
Song Hà (Theo Channelnewsasia)
Các nhà khoa học Trung Quốc vừa nhân bản vô tính một con cừu biến đổi gene có “mỡ tốt” – loại chất béo thường có trong quả, hạt, cá và lá tự nhiên.
Cừu “Peng Peng” nặng 5,74kg khi nó được sinh vào ngày 26/3 tại một phòng thí nghiệm ở Tân Cương.
“Nó đang lớn rất nhanh và khỏe mạnh như cừu bình thường,” Du Yutao, nhà khoa học ở Viện Gene Bắc Kinh và là trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.
Du và các đồng nghiệp đã cấy gene của sâu C. elegans (một loại sâu tròn) vào trứng chưa được thụ tinh của cừu rồi đưa vào dạ con của một cừu cái.
Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh gene của C. elegans có tác dụng tăng axit béo chưa bão hòa – loại chất béo tốt cho sức khỏe con người.
(Nguồn: IBT)
Trong những năm gần đây, Trung Quốc, nước đang phải nuôi 22% dân số thế giới chỉ bằng 7% đất canh tác, đầu tư rất nhiều để tăng năng suất ngũ cốc, thịt và các nông sản khác.
Tuy nhiên, một số người lo ngại về mức độ an toàn của thực phẩm biến đổi gene. Và cũng phải mất vài năm nữa thì thịt của những động vật biến đổi gene mới xuất hiện trên thị trường Trung Quốc.
“Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các dự án can thiệp gene nhưng chúng tôi cần có phương pháp và kết quả tốt hơn để chứng minh động thực vật biến đổi gene là vô hại và an toàn cho tiêu dùng,” Du nói.
Mỹ đang là nước dẫn đầu thế giới về cây trồng biến đổi gene. Chính phủ nước này đã cho phép bán thịt của động vật nhân bản vô tính và con cái chúng vì cho rằng các sản phẩm này không thể phân biệt được với thịt của động vật không được nhân bản vô tính.
Cá hồi biến đổi gene của hãng công nghệ sinh học AquaBounty với khả năng tăng trưởng nhanh gấp đôi cá hồi tự nhiên có thể sẽ được chính phủ Mỹ cho phép ra thị trường trong mùa hè này.
Ngược lại, các nhà khoa học New Zealand năm ngoái đã quyết định từ bỏ thử nhiệm sản xuất gia súc vô tính sau khi có tới 90% số con bị chết vì nhiều nguyên nhân.
Theo báo cáo của AgResearch - cơ quan nghiên cứu khoa học của New Zealand, nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ tử vong ở đàn gia súc thử nghiệm này gồm: sảy thai tự nhiên và phù tích dịch (tình trạng dạ con của bò cái bị đầy nước). Ngoài ra, chứng viêm khớp mạn tính, viêm phổi, què quặt, nhiễm trùng máu cũng là nguyên nhân tử vong phổ biến ở những con bò, cừu và dê vô tính.
(Theo Báo Đất Việt)
Mới đây, một nhóm các nhà khoa học Tây Ban Nha thuộc Viện nghiên cứu IrsiCaixa đã phát hiện ra phân tử ganglioside làm lan truyền virus HIV trên cơ thể người, sự kiện được coi là bước mở đầu cho việc tìm ra một loại biệt dược hữu hiệu cho phép ngăn chặn hoạt động của loại virus nguy hiểm này và từ đó cải thiện công tác điều trị bệnh nhân mang HIV.
Trong một bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành "Plos Biology" phiên bản tiếng Tây Ban Nha, nhà nghiên cứu Javier Martinez-Picado cho biết qua nhiều năm tìm tòi, nhóm nghiên cứu nhận ra rằng virus HIV thâm nhập vào các tế bào đuôi gai và được các phân tử ganglioside chuyên chở đến các hạch và sau khi đến hạch, virus HIV bắt đầu phá hủy hệ miễn dịch của người bệnh thông qua quá trình bao vây và tiêu diệt tế bào lymphô loại TCD4 trong cơ thể người bệnh
Theo Giáo sư Picado, nếu đã biết được cơ chế lan truyền này, khoa học có thể tiến tới việc loại trừ phân tử ganglioside chuyên chở HIV.
Trong thời gian tới, Viện IrsiCaixa sẽ tập trung nghiên cứu tạo ra biệt dược cho phép ngăn chặn quá trình tác động qua lại giữa virút HIV và các tế bào đuôi gai, và chắc chắn biệt dược này sẽ được bổ sung vào các phương pháp điều trị HIV/AIDS hiện hành trên thế giới.
Công trình nghiên cứu hiện nay của Viện IrsiCaixa nhận được sự cộng tác chặt chẽ của trường Đại học Heidelberg (Đức) và tài trợ của Chính phủ Tây Ban Nha.
Theo Vietnam+
Subscribe to:
Posts (Atom)