Gia sư tiếng anh - Tin học

Gia sư tiếng anh - Tin học

Dạy tin học ngoại ngữ mọi trình độ, đặc biệt dạy cấp tốc cho người đi làm, xuất cảnh, luyện thi chứng chỉ quốc gia A,B,C…

Gia sư tiếng anh - Tin học
Gia sư theo lớp

Gia sư theo lớp

Trung tâm gia sư Bình Minh tại tphcm nhận dạy tại nhà các lớp từ 1-12

Gia sư theo lớp
Gia sư theo môn

Gia sư theo môn

Toán – Lý – Hóa – Sinh – Văn – Sử – Địa – Ngoại Ngữ (Anh Hoa Pháp Nhật) – Tin Học – Nhạc- Họa …

Gia sư theo môn
Gia sư theo quận

Gia sư theo quận

Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Quận Gò Vấp,Tân Bình,Tân Phú,Bình Thạnh,Phú Nhuận,Thủ Đức, Bình Tân

Gia sư theo quận

Tuesday, October 4, 2011


Kính hiển vi điện tử quét (SEM) hình ảnh của ở miếng vá với các sợi nano vàng và alginate. Cụm hình sao của các sợi nano vàng có thể được nhìn thấy trong những hình ảnh này.
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại MIT và Bệnh viện Nhi Boston, Hoa Kỳ, đã chế tạo những miếng vá tim sử dụng các sợi dây nhỏ xíu làm bằng vàng (gold) được sử dụng để tạo ra các mẫu mô tế bào mà tất cả chúng có khả năng co bóp đồng thời, bắt chước các động thái tự nhiên của cơ tim. Kết quả của nghiên cứu này trong tương lai, sẽ giúp ích cho việc điều trị cho những bệnh nhân đau tim.
Miếng vá tim mới, sử dụng các sợi dây nano vàng để tăng cường tín hiệu điện giữa các tế bào, một bước tiến đầy hứa hẹn trong điều trị hiệu quả hơn cho bệnh nhân đau tim.

Kết quả của nghiên cứu này đã được đăng tải trên tạp chí Nature Nanotechnology, hứa hẹn sẽ đem lại hiệu quả điều trị tốt hơn so với những miếng vá tim đang được sử dụng hiện nay, vốn không đạt yêu cầu về mức độ tăng cường lưu thông tín hiệu điện giữa các tế bàođể đảm bảo cơ tim trơn, liên tục co bóp.

"Trái tim là cơ cấu khá tinh vi bao gồm cả tín hiệu điện", theo giáo sư Daniel Kohane, làm việc tại Phòng Khoa học Y tế và Công nghệ (HST), Harvard-MIT và là tác giả chính của Nghiên cứu này. "Điều quan trọng là các tế bào cơ tim phải co bóp nhịp nhàng, nếu không thì các mô sẽ không hoạt động đúng".
Cách tiếp cận mới và độc đáo sử dụng các dây nano vàng nằm rải rác giữa các tế bào cơ tim khi các tế bào cơ tim này đang phát triển trong ống nghiệm, một kỹ thuật "tăng cường đáng kể hiệu suất của các miếng vá tim", Kohane nói. Các nhà nghiên cứu tin rằng công nghệ này cuối cùng có thể dẫn đến sự ra đời của các miếng vá tim, sẽ được cấy ghép để thay thế các mô bị hư hại sau một cơn đau tim.
Kính hiển vi điện tử quét (SEM) hình ảnh của dây nano
Kính hiển vi điện tử quét (SEM) hình ảnh của dây nano
Các đồng tác giả của nghiên cứu này gồm: tiến sĩ Brian Timko, làm việc tại MIT và tiến sĩ Tal Dvir, cựu sinh viên, hiện đang làm việc tại Đại học Tel Aviv ở Israel, các tác giả khác là đồng nghiệp của họ đến từ Phòng Khoa học Y tế và Công nghệ (HST), Bệnh viện Nhi Boston và Phân Khoa Hoá học của MIT trong đó có Robert Langer, the David H. Koch Institute Professor.
Để xây dựng mô mới, các kỹ sư sinh học thường sử dụng các miếng vật liệu giống như miếng bọt biển xốp để tổ chức các tế bào thành các hình dạng chức năng khi chúng lớn lên. Theo truyền thống, tuy nhiên, những miếng vật liệu này đã được làm từ vật liệu có độ dẫn điện kém, trong khi các tế bào cơ tim, dựa trên các tín hiệu điện để phối hợp tạo ra sự co bóp đồng thời, đây là một vấn đề lớn.

"Trong trường hợp của các tế bào cơ tim đặc trưng: mối tiếp giáp giữa các tế bào phải có khả năng dẫn truyền tín hiệu điện tốt giữa các tế bào"
, theo Timko. Tuy nhiên miếng vật liệu lại hoạt động như một chất cách điện, ngăn chặn tín hiệu lưu thông giữa các tế bào và làm cho gần như tất cả các mô tế bào không thể phối hợp nhịp nhàng.
Để giải quyết vấn đề, Timko và Dvir đã hợp tác bổ sung lẫn nhau: Timko thiết kế các dây nano bán dẫn bằng vàng (gold), Dvir trong kỹ thuật cấy ghép mô cơ tim - để thiết kế miếng vá tim mà sẽ cho phép các tín hiệu điện đi qua.

"Chúng tôi bắt đầu động não, và tôi nhận ra rằng khá dễ dàng để phát triển các dây nano truyền dẫn tín hiệu điện, làm bằng vàng (gold), và tất nhiên là vàng có tính dẫn điện cao", Timko nói thêm. "Chỉ cần có hai sợi nano truyền dẫn tín hiệu được làm bằng vàng, dài vài microns là truyền tín hiệu được rồi".
Nhóm nghiên cứu đã trộn alginate (một chất hữu cơ như kẹo cao su) với một dung dịch chứa các dây nano vàng để tạo ra một miếng vá tổng hợp với hàng tỷ các cấu trúc kim loại nhỏ xíu chạy qua nó.

Sau đó, họ cấy tế bào cơ tim lên miếng vá hỗn hợp vàng - alginate, thử nghiệm tính dẫn của mô phát triển trên miếng vá hỗn hợp này so với mô phát triển trên miếng vá làm bằng alginate tinh khiết. Vì tín hiệu được hướng dẫn bằng ion canxi và trong số tế bào, nhà nghiên cứu có thể kiểm tra tín hiệu điện lan truyền giữa các tế bào đi bao xa bằng cách quan sát lượng canxi có mặt trong các khu vực khác nhau của mô.

"Về cơ bản, canxi là cách mà các tế bào cơ tim giao tiếp với nhau, vì vậy chúng tôi quan sát tế bào với dấu hiệu đặc trưng canxi và đặt miếng vá lên kính hiển vi", Timko nói. Ở đây, nhóm nghiên cứu quan sát: có sự cải tiến thật ấn tượng trong tế bào phát triển trên miếng vá hỗn hợp: loạt tín hiệu dẫn truyền cải thiện bằng khoảng ba ước dưới dạng luỹ thừa 10.

"Trong mô tim bẩm sinh khoẻ mạnh, có sự dẫn truyền qua nhiều cm", Timko nói. Trước đây, mô phát triển trên miếng vá alginate nguyên chất dẫn truyền đi chỉ khoảng một vài trăm (đo bằng dụng cụ đo vi lượng) hoặc vài ngàn milimét. Nhưng ở miếng vá với các sợi nano vàng và alginate đạt được sự dẫn truyền tín hiệu vượt qua quy mô nhiều milimét, Timko nói.
"Đây là một sự so sánh khập khiễng. Việc sử dụng các miếng vá tim được làm từ những vật liệu nano thì tốt hơn nhiều", Kohane nói.

Charles Lieber, một giáo sư hóa học tại Đại học Harvard nói: "thật tuyệt vời". "Tôi nghĩ rằng kết quả đã khá rõ ràng, và rất thú vị cả về cơ bản: thể hiện rằng nhóm nghiên cứu đã cải thiện tính dẫn điện của những miếng vá và sau đó rõ ràng đã tạo ra sự khác biệt trong việc tăng cường khả năng co bóp đồng thời của mô tế bào cơ tim".

Các nhà nghiên cứu có kế hoạch để theo đuổi các nghiên cứu trên cơ thể người để xác định làm thế nào các chức năng mô phức hợp tiếp tục phát triển sau khi được cấy ghép vào cơ thể sống. Ngoài ra, đối với bệnh nhân đau tim, Kohane nói thêm rằng các thử nghiệm thành công  "sẽ mở ra một loạt các cánh cửa cho các loại kỹ thuật khác liên quan đến mô tế bào".Lieber nhất trí với nhận định trên.

"Tôi nghĩ rằng: các nhà khoa học trong các lĩnh vực khác có thể tận dụng lợi thế của ý tưởng này cho các hệ thống khác: Trong tế bào cơ khác, cấu trúc mạch máu khác, có lẽ ngay cả trong hệ thống thần kinh, đây là một cách đơn giản để có một tác động lớn đến các hình thức thông tin liên lạc tập thể của các tế bào", Lieber nói . "Rất nhiều người sẽ tận dụng kết quả của nghiên cứu này".
Theo Hồ Duy Bình/Khoa học
Posted by Unknown


Một con rắn có tới 5 đầu vừa được phát hiện ở gần ngôi đền Kukke Subramanya, làng Subramanya, thuộc Karnataka (Ấn Độ).

Ngôi đền nơi phát hiện ra con rắn kỳ dị này là một địa điểm hành hương nổi tiếng ở Ấn Độ.
Ngôi đền nơi phát hiện ra con rắn kỳ dị này là một địa điểm hành hương nổi tiếng ở Ấn Độ.
Ngôi đền thuộc làng Subramanya, bang Karnataka (Ấn Độ), cách Mangalore khoảng 105km.
Ngôi đền thuộc làng Subramanya, bang Karnataka (Ấn Độ), cách Mangalore khoảng 105km.
Theo Xã luận
Posted by Unknown


Các nhà khoa học đã hóa giải được nhiều bí ẩn liên quan đến cách não người đương đầu với stress và những phát hiện này sẽ dọn đường cho một loại thuốc giúp xóa đi hoặc vơi đi những ký ức đau buồn.
Theo Daily Mail, trong vòng 1 thập kỷ nữa thôi, chúng ta sẽ có thể phát triển được loại thuốc đột phá này. Những người luôn bị ám ảnh bởi các tai nạn hoặc thảm kịch trong quá khứ cuối cùng cũng tìm được một phương thuốc cứu rỗi. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng sẽ đặt nền móng cho các phương pháp mới điều trị trầm cảm.
Phát hiện mới cho phép phát triển loại thuốc giúp xóa đi những ký ức đau buồn. (Ảnh: Sciencephoto_Library)
Phát hiện mới cho phép phát triển loại thuốc
giúp xóa đi những ký ức đau buồn. (Ảnh: Sciencephoto_Library)
Các nhà nghiên cứu của Trường Đại học Leicester nhận thấy, những con chuột được biến đổi gene để không thể sản sinh ra một loại protein có tên lipocalin-2 sẽ chịu đựng "Stress" kém hơn hẳn so với các loài động vật khác. Đó là do những "khớp nối" mà các tế bào thần kinh sử dụng để giao tiếp với nhau đã bị thay đổi.
"Những khớp nối này chính là chìa khóa của việc tiếp nhận và củng cố ký ức. Chúng giúp chúng ta ghi nhớ những gì đã được học hoặc trải qua, nhưng không phải lúc nào điều đó cũng tốt", Tiến sĩ Robert Pawlak, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết.
Trên thực tế, nhiều sự kiện đau buồn, tuyệt vọng nếu quên được nhanh thì tốt hơn. Trong não của chúng ta luôn xảy ra một cuộc chiến không ngừng nghỉ để cân bằng giữa những khớp nối phẳng và khớp nối hình nấm, giữa những gì nên quên đi và những gì cần ghi nhớ, Tiến sĩ Pawlak giải thích. Protein lipocalin - 2 sẽ được não sản sinh ra để đối phó với stress. Nó có nhiệm vụ giảm bớt số lượng của các khớp nối hình nấm và nhờ đó, những kỷ niệm buồn sẽ ít hằn sâu lên ký ức của con người hơn.
Trong giai đoạn tiếp theo, các nhà khoa học sẽ tìm hiểu xem việc tăng hàm lượng protein lipocalin-2 lên có giúp xoa dịu hay xóa mờ các ký ức buồn hay không. Nếu câu trả lời là có thì một loại thuốc làm tăng lipocalin-2 trong não sẽ xuất hiện trên thị trường trong vòng 10 năm tới.
Cho tới nay, khả năng xóa trí nhớ hoặc xóa ký ức buồn mới chỉ tồn tại trong tiểu thuyết viễn tưởng hoặc các bộ phim của Hollywood. Lấy thí dụ như trong phim Eternal Sunshine of the Spotless Mind, một cặp tình nhân (do Kate Winslet và Jim Carrey thủ vai) đã trải qua một quá trình "tẩy ký ức" để xóa sạch những gì họ biết về nhau sau khi chia tay.
Trước nghiên cứu của Đại học Leicester, một nhóm các nhà khoa học Hà Lan cũng phát hiện thấy một loại thuốc đang dùng để điều trị bệnh tim cũng có thể giúp người bệnh xóa bớt các ký ức buồn. Đồng thời, những người ít bị hoảng loạn trong giai đoạn "khủng hoảng" cũng sẽ nhớ về thảm kịch ít hơn so với những người dễ xúc động.
Theo Daily mail, Vietnamnet
Posted by Unknown


Mới đây, các nhà khoa học thuộc Đại học Tel Aviv( Israel) đã thành công trong việc chế tạo tiểu não nhân tạo thay thế vùng tiểu não đã bị vô hiệu hóa ở chuột bạch để phục hồi chức năng não.
Trước đó hai năm, Henry Markram, Giám đốc dự án Blue Brain Project ở Thụy Sĩ cũng dự đoán về việc nghiên cứu và phát triển thành công bộ não nhân tạo đầu tiên cho con người trong tương lai gần.
Các nhà nghiên cứu Isarel cho biết, tiểu não là phần nằm ở mặt dưới não, bên cạnh thân não. Nó đóng vai trò lớn trong việc điều khiển cơ thể, các cử động hỗn hợp và nhiều phản xạ phức tạp. Tiểu não có cấu trúc thần kinh đơn giản, do đó, tái tạo tiểu nào là điều không quá phức tạp so với các vùng khác trên não.
Giáo sư tâm sinh học Matti Mintz, trưởng nhóm nghiên cứu tiến hành phân tích các tín hiệu cảm giác đầu vào và phản hồi đầu ra từ thân não tới tiểu não của một con chuột bạch thông qua một con chip điện tử đặt bên ngoài hộp sọ.
Tiếp đó, con chuột thí nghiệm được gây mê và gắn chip lên đầu. Các nhà khoa học tạo phản xạ có điều kiện cho con chuột đang bị gây mê. Cụ thể, họ đặt thiết bị phát ra âm thanh có kèm đồng thời luồng gió, khi âm thanh phát ra, gió thổi vào mặt chuột khiến nó phải nhắm mắt lại. Dần già, chỉ cần nghe thấy âm thanh chuột cũng tự động nhắm mắt lại.
Các phản xạ trên chuột học được thông qua con chip gắn vào não. Nếu không có chip này, tiểu não vốn bị vô hiệu hóa của chuột không thể học được phản xạ có điều kiện trên. Điều này cho thấy, các nhà khoa học đã thành công trong việc tái tạo hoạt động của tiểu não.
Không chỉ dừng lại ở khu tiểu não, các nhà khoa học còn muốn mở rộng phạm vi tái tạo ở khu vực lớn hơn. Thành công ở chuột là bước đầu giúp các nhà khoa học xác định phương thức hoạt động và cải thiện chức năng não ở những nạn nhân bị đột quỵ hoặc não bị tổn thương do va chạm vật lý.
Các nhà khoa học tin tưởng rằng, trong khoảng vài thập kỉ tới, sẽ có bộ phận nhân tạo thay thế được các phần khác của não (ngoài tiểu não) như vỏ thị giác visual cortex hay vùnghippocapus.
Theo Tiền Phong
Posted by Unknown


Trong một nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu, các nhà khoa học làm việc tại Đại học Sydney, Úc đã kết luận rằng: việc sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh là một phương pháp điều trị tốn kém và không hiệu quả.
Bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh là một nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh.
Nhóm các nhà khoa học nghiên cứu Liệu pháp miễn dịch Trẻ sơ sinh Quốc tế ( INIS ), đã tiến hành điều tra việc sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở hơn 3000 trẻ em từ các khoa hồi sức cho trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn cầu.
Kết quả của nghiên cứu này đã được đăng tải trên tạp chí New England Journal of Medicine, số ra ngày 30 tháng 9 năm 2011.
Trong nghiên cứu này các nhà khoa học đã kết luận rằng: tỷ lệ tử vong hoặc tàn tật nặng ở trẻ sơ sinh mắc bệnh nhiễm trùng máu là 39%, trong những trường hợp vốn nghi ngờ hoặc được chứng minh đã điều trị sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) – bằng với tỉ lệ tử vong hoặc tàn tật nặng như trong các trường hợp mà bệnh nhân được điều trị bằng giả dược.
Trẻ sơ sinh có mức độ thấp của các kháng thể chống lại nhiễm trùng, được gọi là globulin miễn dịch. Nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng: sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh, một sản phẩm máu người được chiết xuất từ ​​máu hiến tặng, có thể làm giảm một nửa số trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh, theo giáo sư William Tarnow-Mordi, Giám đốc các Thử nghiệm điều trị trẻ sơ sinh tại Trung tâm thử nghiệm lâm sàng NHMRC Đại học Sydney, Úc và là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu trẻ sơ sinh WINNER.
Phát hiện IVIG không tác dụng trong điều trị ung thư máu ở trẻ sơ sinh
Giáo sư Tarnow-Mordi, trưởng nhóm nghiên cứu tại Úc cho biết thêm: "Trong khi một số chuyên gia y tế thường xuyên khuyến cáo nên sử dụng IVIG để điều trị cho trẻ sơ sinh bị nghi ngờ mắc bệnh nhiễm trùng máu, thì những người khác lại chờ đợi các kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu INIS".

Điều trị bằngglobulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) thì tốn kém và nguồn cung cấp thì lại hạn chế. Phương pháp điều trị này đòi hỏi đáng kể thời gian và công sức để quản lý, với rủi ro gia tăng của tình trạng quá tải dịch truyền hoặc nguy cơ lây bệnh truyền nhiễm trong thời gian trẻ nằm viện.

‘Kết quả của nghiên cứu giúp khẳng định những nghi ngờ về tính hữu dụng của việc sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh. Thay vì sử dụng IVIG ở trẻ sơ sinh,chúng ta có thể dành nguồn tài nguyên quý giá cho việc điều trị cho các đối tượng bệnh nhân khác hiệu quả hơn".

Phó Giáo sư John Ziegler, Chủ tịch của Hội Y Tế NSW nhóm người sử dụng IVIG, cho biết:"Các thành viên của Nhóm các nhà khoa học nghiên cứu Liệu pháp miễn dịch Trẻ sơ sinh Quốc tế (INIS) đã đạt thành tựu lớn trong nghiên cứu này. Điều này đã góp phần khuyến khích những nhà nghiên cứu khác tiếp tục theo đuổi nghiên cứu về tính hiệu quả và chi phí của việc sử dụng IVIG trong việc điều trị các căn bệnh khác, nơi mà vai trò cho IVIG còn chưa được khẳng định".

Giáo sư Warwick Anderson, Giám đốc điều hành của Hội đồng Nghiên cứu Y khoa và Sức khỏe Quốc gia, nói thêm: "Nghiên cứu Liệu pháp miễn dịch Trẻ sơ sinh Quốc tế minh họa tầm quan trọng của nghiên cứu chất lượng cao mang lại sự tin cậy cho các thử nghiệm điều trị lâm sàng ở tất cả nhóm tuổi".

Hơn 40% trẻ sơ sinh tham gia thử nghiệm này đã được tuyển chọn trong các khoa hồi sức cho trẻ sơ sinh tại Úc hoặc New Zealand, phối hợp thông qua Trung tâm Nghiên cứu thử nghiệm điều trị lâm sàng Hội đồng Nghiên cứu Y khoa và Sức khỏe Quốc gia Đại học Sydney, Úc.

Trên phạm vi toàn cầu, các thử nghiệm phối hợp với Khoa dịch tễ học chu kỳ sinh sản Quốc gia, tại Đại học Oxford, Hoa Kỳ, dẫn đầu bởi giáo sư Peter Brocklehurst.

Nghiên cứu này nhận được tài trợ bởi: Hội đồng Nghiên cứu Y khoa và Sức khỏe Quốc gia Úc, với sự tài trợ bổ sung bởi Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Anh và Hội đồng Nghiên cứu Y tế New Zealand. Nguồn cung cấp IVIG tại Úc là từ nguồn dự trữ máu của Hội Chữ thập đỏ Úc và được tài trợ bởi chính phủ Úc.
Hồ Duy Bình (sydney.edu.au)
Posted by Unknown


Shawn Nielsen, nghiên cứu sinh về sinh học thần kinh và hành vi tại Đại học California, Irvine, Hoa Kỳ đã tiến hành một nghiên cứu với sự tham gia của 66 sinh viên nữ, phân nửa số nữ sinh viên này được cho uống thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày và một nửa còn lại thì không được uống.


Kết quả của nghiên cứu này đã được xuất bản trong tạp chí Neurobiology of Learning and Memory.

Những nữ sinh tham dự thí nghiệm này sẽ được trải qua đợt kiểm tra trí nhớ. Một số nữ sinh đã được chọn ngẫu nhiên để xem một bộ phim tình cảm kể về một cậu bé bị một chiếc xe hơi đâm phải trong khi đi bộ với mẹ của mình và sau đó cậu bé được đưa vội vã tới bệnh viện, nơi các bác sĩ lắp lại bàn chân bị cắt đứt của cậu bé. Những nữ sinh khác được xem câu chuyện ít gay cấn kể về: một bà mẹ và con trai chứng kiến một tai nạn nhỏ, trên đường đi đến bệnh viện.

Nielsen đang cố gắng đạt được học vị tiến sĩ của cô ấy trong phòng thí nghiệm của Larry Cahill (nhà nghiên cứu về hormone nổi tiếng), đã quan tâm đến sự khác biệt về mức độ hormone estrogen và hormone progesterone có thể ảnh hưởng đến trí nhớ. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng hormone estrogen có thể giúp tăng cường trí nhớ khi nói, trong một nghiên cứu khác, chẳng hạn, những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày nhận thấy rằng họ nhớ các từ vựng tốt hơn vào những ngày được uống thuốc ngừa thai so với những ngày mà họ không uống thuốc hoặc không có sự bổ sung thay thế về hormon.
Trong nghiên cứu này, sau khi những nữ sinh được xem phim họ đã được thử nghiệm về trí nhớ có liên quan đến cảm xúc, một tuần sau đó về những gì họ nhìn thấy: những người dùng thuốc ngừa thai có thể nhớ lại các chủ đề chung của bộ phim tốt hơn so với các chi tiết cụ thể của nó. Điều này cũng tương tự như cách thức mà người đàn ông nhớ lại các sự kiện tình cảm, Nielsen cho biết.

"Nếu chúng ta làm giảm mức độ cung cấp hormone sinh dục nữ, sự thay đổi trong các loại thông tin mà những nữ sinh viên này (những người dùng thuốc ngừa thai) nhớ lại là giống như những gì một người nam giới có thể nhớ", Nielsen nói. Thuốc tránh thai hoạt động bằng cách làm phẳng những gai tự nhiên có trong hormone estrogen và hormone progesterone và đó là những gì gây ra sự rụng trứng và báo hiệu cơ thể không bổ sung các kích thích tố, giữ mức hormone thấp trong suốt chu kỳ.

Kết quả ngược lại cho những nữ sinh viên không có sử dụng loại thuốc ngừa thai này: họ có thể ghi nhớ tốt hơn ở các chi tiết, chẳng hạn như: màu áo cậu bé trên đã mặc, người mẹ đeo kính, hoặc liệu rằng có vòi nước cứu hỏa tại giao lộ. Những nữ sinh viên không sử dụng thuốc ngừa thai có thể không nhớ lại những chủ đề chung của bộ phim như những chi tiết mà họ có thể nhớ.

Điều này không có nghĩa rằng thuốc ngừa thai làm chấm dứt bộ nhớ hoặc cướp đi khả năng nhớ lại những điều nổi bật của người phụ nữ. Nó chỉ là một vấn đề của những loại thông tin mà họ nhớ. Thuốc ngừa thai có tác dụng giữ hàm lượng hoóc môn ổn định trong suốt chu kỳ, những nữ sinh viên mang nó có xu hướng phản ứng khác nhau với những trải nghiệm thiên về cảm tính, so với phụ nữ trải qua sự trồi sụt tự nhiên hàng tháng và dòng chảy của hormone. Và điều này là quan trọng vì nhiều chứng bệnh tâm thần ảnh hưởng đến phụ nữ như: lo âu, trầm cảm và rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý - như là những biểu hiện cực đoan thiên về cảm tính diễn ra một cách tự nhiên.

"Điều quan trọng trong những phát hiện này là: hormone giới tính ảnh hưởng đến các loại thông tin giúp nhớ lại một sự kiện thiên về cảm xúc", Nielsen nói. "Kết quả của nghiên cứu này khẳng định rằng: những thay đổi này là một công cụ mạnh mẽ cho các nghiên cứu trong tương lai điều tra sinh học thần kinh cơ bản về những dạng rối loạn này".
"Đơn giản chỉ cần dùng thuốc và mức độ ức chế hormone sinh dục tự nhiên có thể ảnh hưởng đến những loại thông tin cụ thể mà bạn có thể nhớ từ một sự kiện nổi bật. Điều đó nói lên vai trò của hormone estrogen và hormone progesterone trong bộ nhớ, chúng ảnh hưởng đến cách một người phụ nữ nhớ lại một sự kiện cảm xúc trong cuộc sống của cô ấy", Nielsen nói.

Một sự hiểu biết tốt hơn về kết nối này có thể dẫn đến phương pháp điều trị hiệu quả hơn nhằm vào mục tiêu như các trình điều khiển nội tiết tố. Nielsen đã cố gắng tìm ra chính xác những gì mức độ của kích thích tố có liên quan với những thay đổi trong hồi ức.
Hiện tại, Nielsen chuẩn bị khởi động nghiên cứu bổ sung về tương quan giữa mức độ biến động của hormone estrogen và hormone progesterone tự nhiên ở những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai với những thay đổi trong các loại thông tin mà những phụ nữ này nhớ lại từ các sự kiện thiên về cảm xúc.
Hồ Duy Bình (Healthland)
Posted by Unknown

Monday, October 3, 2011



Shawn Nielsen, nghiên cứu sinh về sinh học thần kinh và hành vi tại Đại học California, Irvine, Hoa Kỳ đã tiến hành một nghiên cứu với sự tham gia của 66 sinh viên nữ, phân nửa số nữ sinh viên này được cho uống thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày và một nửa còn lại thì không được uống.
Kết quả của nghiên cứu này đã được xuất bản trong tạp chí Neurobiology of Learning and Memory.


Những nữ sinh tham dự thí nghiệm này sẽ được trải qua đợt kiểm tra trí nhớ. Một số nữ sinh đã được chọn ngẫu nhiên để xem một bộ phim tình cảm kể về một cậu bé bị một chiếc xe hơi đâm phải trong khi đi bộ với mẹ của mình và sau đó cậu bé được đưa vội vã tới bệnh viện, nơi các bác sĩ lắp lại bàn chân bị cắt đứt của cậu bé. Những nữ sinh khác được xem câu chuyện ít gay cấn kể về: một bà mẹ và con trai chứng kiến một tai nạn nhỏ, trên đường đi đến bệnh viện.

Nielsen đang cố gắng đạt được học vị tiến sĩ của cô ấy trong phòng thí nghiệm của Larry Cahill (nhà nghiên cứu về hormone nổi tiếng), đã quan tâm đến sự khác biệt về mức độ hormone estrogen và hormone progesterone có thể ảnh hưởng đến trí nhớ. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng hormone estrogen có thể giúp tăng cường trí nhớ khi nói, trong một nghiên cứu khác, chẳng hạn, những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày nhận thấy rằng họ nhớ các từ vựng tốt hơn vào những ngày được uống thuốc ngừa thai so với những ngày mà họ không uống thuốc hoặc không có sự bổ sung thay thế về hormon.
Trong nghiên cứu này, sau khi những nữ sinh được xem phim họ đã được thử nghiệm về trí nhớ có liên quan đến cảm xúc, một tuần sau đó về những gì họ nhìn thấy: những người dùng thuốc ngừa thai có thể nhớ lại các chủ đề chung của bộ phim tốt hơn so với các chi tiết cụ thể của nó. Điều này cũng tương tự như cách thức mà người đàn ông nhớ lại các sự kiện tình cảm, Nielsen cho biết.

"Nếu chúng ta làm giảm mức độ cung cấp hormone sinh dục nữ, sự thay đổi trong các loại thông tin mà những nữ sinh viên này (những người dùng thuốc ngừa thai) nhớ lại là giống như những gì một người nam giới có thể nhớ", Nielsen nói. Thuốc tránh thai hoạt động bằng cách làm phẳng những gai tự nhiên có trong hormone estrogen và hormone progesterone và đó là những gì gây ra sự rụng trứng và báo hiệu cơ thể không bổ sung các kích thích tố, giữ mức hormone thấp trong suốt chu kỳ.

Kết quả ngược lại cho những nữ sinh viên không có sử dụng loại thuốc ngừa thai này: họ có thể ghi nhớ tốt hơn ở các chi tiết, chẳng hạn như: màu áo cậu bé trên đã mặc, người mẹ đeo kính, hoặc liệu rằng có vòi nước cứu hỏa tại giao lộ. Những nữ sinh viên không sử dụng thuốc ngừa thai có thể không nhớ lại những chủ đề chung của bộ phim như những chi tiết mà họ có thể nhớ.

Điều này không có nghĩa rằng thuốc ngừa thai làm chấm dứt bộ nhớ hoặc cướp đi khả năng nhớ lại những điều nổi bật của người phụ nữ. Nó chỉ là một vấn đề của những loại thông tin mà họ nhớ. Thuốc ngừa thai có tác dụng giữ hàm lượng hoóc môn ổn định trong suốt chu kỳ, những nữ sinh viên mang nó có xu hướng phản ứng khác nhau với những trải nghiệm thiên về cảm tính, so với phụ nữ trải qua sự trồi sụt tự nhiên hàng tháng và dòng chảy của hormone. Và điều này là quan trọng vì nhiều chứng bệnh tâm thần ảnh hưởng đến phụ nữ như: lo âu, trầm cảm và rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý - như là những biểu hiện cực đoan thiên về cảm tính diễn ra một cách tự nhiên.

"Điều quan trọng trong những phát hiện này là: hormone giới tính ảnh hưởng đến các loại thông tin giúp nhớ lại một sự kiện thiên về cảm xúc", Nielsen nói. "Kết quả của nghiên cứu này khẳng định rằng: những thay đổi này là một công cụ mạnh mẽ cho các nghiên cứu trong tương lai điều tra sinh học thần kinh cơ bản về những dạng rối loạn này".
"Đơn giản chỉ cần dùng thuốc và mức độ ức chế hormone sinh dục tự nhiên có thể ảnh hưởng đến những loại thông tin cụ thể mà bạn có thể nhớ từ một sự kiện nổi bật. Điều đó nói lên vai trò của hormone estrogen và hormone progesterone trong bộ nhớ, chúng ảnh hưởng đến cách một người phụ nữ nhớ lại một sự kiện cảm xúc trong cuộc sống của cô ấy", Nielsen nói.

Một sự hiểu biết tốt hơn về kết nối này có thể dẫn đến phương pháp điều trị hiệu quả hơn nhằm vào mục tiêu như các trình điều khiển nội tiết tố. Nielsen đã cố gắng tìm ra chính xác những gì mức độ của kích thích tố có liên quan với những thay đổi trong hồi ức.
Hiện tại, Nielsen chuẩn bị khởi động nghiên cứu bổ sung về tương quan giữa mức độ biến động của hormone estrogen và hormone progesterone tự nhiên ở những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai với những thay đổi trong các loại thông tin mà những phụ nữ này nhớ lại từ các sự kiện thiên về cảm xúc.
Hồ Duy Bình (Healthland)
Posted by Unknown

Sunday, October 2, 2011



Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Đan Mạch được trình bày tại Hội thảo thường niên của Hiệp hội Hô hấp châu Âu ở Amsterdam, uống rượu bia với một lượng vừa phải có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh hen suyễn.
Nhóm nghiên cứu trên đã tìm hiểu 19.349 cặp sinh đôi ở độ tuổi từ 12-41. Tất cả các đối tượng này đã hoàn thành một bảng câu hỏi vào thời điểm bắt đầu và kết thúc công trình nghiên cứu này để so sánh lượng hấp thụ cồn và nguy cơ phát triển bệnh hen suyễn trong hơn tám năm.
Kết quả cho thấy nguy cơ mắc bệnh hen suyễn thấp nhất nằm ở nhóm sử dụng rượu bia ở mức vừa phải.
Theo nhóm nghiên cứu trên, những người hiếm khi hay không bao giờ uống rượu bia thì có nguy cơ cao nhất mắc bệnh hen suyễn, cao hơn 1,4 lần.
Những người uống nhiều cũng có nguy cơ gia tăng phát triển bệnh hen suyễn, cao hơn 1,2 lần.
Nhà nghiên cứu Sofie Lieberoth thuộc bệnh viện Bispebjerg, Đan Mạch cho hay: “Việc uống rượu bia quá mức có thể gây ra những vấn đề về sức khỏe, các kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc sử dụng đồ uống có cồn với lượng vừa phải từ 1-6 đơn vị có thể giúp giảm nguy cơ phát triển bệnh hen suyễn”.
Theo Vietnam+
Posted by Unknown