Gia sư tiếng anh - Tin học

Gia sư tiếng anh - Tin học

Dạy tin học ngoại ngữ mọi trình độ, đặc biệt dạy cấp tốc cho người đi làm, xuất cảnh, luyện thi chứng chỉ quốc gia A,B,C…

Gia sư tiếng anh - Tin học
Gia sư theo lớp

Gia sư theo lớp

Trung tâm gia sư Bình Minh tại tphcm nhận dạy tại nhà các lớp từ 1-12

Gia sư theo lớp
Gia sư theo môn

Gia sư theo môn

Toán – Lý – Hóa – Sinh – Văn – Sử – Địa – Ngoại Ngữ (Anh Hoa Pháp Nhật) – Tin Học – Nhạc- Họa …

Gia sư theo môn
Gia sư theo quận

Gia sư theo quận

Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Quận Gò Vấp,Tân Bình,Tân Phú,Bình Thạnh,Phú Nhuận,Thủ Đức, Bình Tân

Gia sư theo quận

Tuesday, October 4, 2011



Các nhà khoa học đã hóa giải được nhiều bí ẩn liên quan đến cách não người đương đầu với stress và những phát hiện này sẽ dọn đường cho một loại thuốc giúp xóa đi hoặc vơi đi những ký ức đau buồn.
Theo Daily Mail, trong vòng 1 thập kỷ nữa thôi, chúng ta sẽ có thể phát triển được loại thuốc đột phá này. Những người luôn bị ám ảnh bởi các tai nạn hoặc thảm kịch trong quá khứ cuối cùng cũng tìm được một phương thuốc cứu rỗi. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng sẽ đặt nền móng cho các phương pháp mới điều trị trầm cảm.
Phát hiện mới cho phép phát triển loại thuốc giúp xóa đi những ký ức đau buồn. (Ảnh: Sciencephoto_Library)
Phát hiện mới cho phép phát triển loại thuốc
giúp xóa đi những ký ức đau buồn. (Ảnh: Sciencephoto_Library)
Các nhà nghiên cứu của Trường Đại học Leicester nhận thấy, những con chuột được biến đổi gene để không thể sản sinh ra một loại protein có tên lipocalin-2 sẽ chịu đựng "Stress" kém hơn hẳn so với các loài động vật khác. Đó là do những "khớp nối" mà các tế bào thần kinh sử dụng để giao tiếp với nhau đã bị thay đổi.
"Những khớp nối này chính là chìa khóa của việc tiếp nhận và củng cố ký ức. Chúng giúp chúng ta ghi nhớ những gì đã được học hoặc trải qua, nhưng không phải lúc nào điều đó cũng tốt", Tiến sĩ Robert Pawlak, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết.
Trên thực tế, nhiều sự kiện đau buồn, tuyệt vọng nếu quên được nhanh thì tốt hơn. Trong não của chúng ta luôn xảy ra một cuộc chiến không ngừng nghỉ để cân bằng giữa những khớp nối phẳng và khớp nối hình nấm, giữa những gì nên quên đi và những gì cần ghi nhớ, Tiến sĩ Pawlak giải thích. Protein lipocalin - 2 sẽ được não sản sinh ra để đối phó với stress. Nó có nhiệm vụ giảm bớt số lượng của các khớp nối hình nấm và nhờ đó, những kỷ niệm buồn sẽ ít hằn sâu lên ký ức của con người hơn.
Trong giai đoạn tiếp theo, các nhà khoa học sẽ tìm hiểu xem việc tăng hàm lượng protein lipocalin-2 lên có giúp xoa dịu hay xóa mờ các ký ức buồn hay không. Nếu câu trả lời là có thì một loại thuốc làm tăng lipocalin-2 trong não sẽ xuất hiện trên thị trường trong vòng 10 năm tới.
Cho tới nay, khả năng xóa trí nhớ hoặc xóa ký ức buồn mới chỉ tồn tại trong tiểu thuyết viễn tưởng hoặc các bộ phim của Hollywood. Lấy thí dụ như trong phim Eternal Sunshine of the Spotless Mind, một cặp tình nhân (do Kate Winslet và Jim Carrey thủ vai) đã trải qua một quá trình "tẩy ký ức" để xóa sạch những gì họ biết về nhau sau khi chia tay.
Trước nghiên cứu của Đại học Leicester, một nhóm các nhà khoa học Hà Lan cũng phát hiện thấy một loại thuốc đang dùng để điều trị bệnh tim cũng có thể giúp người bệnh xóa bớt các ký ức buồn. Đồng thời, những người ít bị hoảng loạn trong giai đoạn "khủng hoảng" cũng sẽ nhớ về thảm kịch ít hơn so với những người dễ xúc động.
Theo Daily mail, Vietnamnet
Posted by Unknown


Mới đây, các nhà khoa học thuộc Đại học Tel Aviv( Israel) đã thành công trong việc chế tạo tiểu não nhân tạo thay thế vùng tiểu não đã bị vô hiệu hóa ở chuột bạch để phục hồi chức năng não.
Trước đó hai năm, Henry Markram, Giám đốc dự án Blue Brain Project ở Thụy Sĩ cũng dự đoán về việc nghiên cứu và phát triển thành công bộ não nhân tạo đầu tiên cho con người trong tương lai gần.
Các nhà nghiên cứu Isarel cho biết, tiểu não là phần nằm ở mặt dưới não, bên cạnh thân não. Nó đóng vai trò lớn trong việc điều khiển cơ thể, các cử động hỗn hợp và nhiều phản xạ phức tạp. Tiểu não có cấu trúc thần kinh đơn giản, do đó, tái tạo tiểu nào là điều không quá phức tạp so với các vùng khác trên não.
Giáo sư tâm sinh học Matti Mintz, trưởng nhóm nghiên cứu tiến hành phân tích các tín hiệu cảm giác đầu vào và phản hồi đầu ra từ thân não tới tiểu não của một con chuột bạch thông qua một con chip điện tử đặt bên ngoài hộp sọ.
Tiếp đó, con chuột thí nghiệm được gây mê và gắn chip lên đầu. Các nhà khoa học tạo phản xạ có điều kiện cho con chuột đang bị gây mê. Cụ thể, họ đặt thiết bị phát ra âm thanh có kèm đồng thời luồng gió, khi âm thanh phát ra, gió thổi vào mặt chuột khiến nó phải nhắm mắt lại. Dần già, chỉ cần nghe thấy âm thanh chuột cũng tự động nhắm mắt lại.
Các phản xạ trên chuột học được thông qua con chip gắn vào não. Nếu không có chip này, tiểu não vốn bị vô hiệu hóa của chuột không thể học được phản xạ có điều kiện trên. Điều này cho thấy, các nhà khoa học đã thành công trong việc tái tạo hoạt động của tiểu não.
Không chỉ dừng lại ở khu tiểu não, các nhà khoa học còn muốn mở rộng phạm vi tái tạo ở khu vực lớn hơn. Thành công ở chuột là bước đầu giúp các nhà khoa học xác định phương thức hoạt động và cải thiện chức năng não ở những nạn nhân bị đột quỵ hoặc não bị tổn thương do va chạm vật lý.
Các nhà khoa học tin tưởng rằng, trong khoảng vài thập kỉ tới, sẽ có bộ phận nhân tạo thay thế được các phần khác của não (ngoài tiểu não) như vỏ thị giác visual cortex hay vùnghippocapus.
Theo Tiền Phong
Posted by Unknown


Trong một nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu, các nhà khoa học làm việc tại Đại học Sydney, Úc đã kết luận rằng: việc sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh là một phương pháp điều trị tốn kém và không hiệu quả.
Bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh là một nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ sơ sinh.
Nhóm các nhà khoa học nghiên cứu Liệu pháp miễn dịch Trẻ sơ sinh Quốc tế ( INIS ), đã tiến hành điều tra việc sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở hơn 3000 trẻ em từ các khoa hồi sức cho trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn cầu.
Kết quả của nghiên cứu này đã được đăng tải trên tạp chí New England Journal of Medicine, số ra ngày 30 tháng 9 năm 2011.
Trong nghiên cứu này các nhà khoa học đã kết luận rằng: tỷ lệ tử vong hoặc tàn tật nặng ở trẻ sơ sinh mắc bệnh nhiễm trùng máu là 39%, trong những trường hợp vốn nghi ngờ hoặc được chứng minh đã điều trị sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) – bằng với tỉ lệ tử vong hoặc tàn tật nặng như trong các trường hợp mà bệnh nhân được điều trị bằng giả dược.
Trẻ sơ sinh có mức độ thấp của các kháng thể chống lại nhiễm trùng, được gọi là globulin miễn dịch. Nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng: sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh, một sản phẩm máu người được chiết xuất từ ​​máu hiến tặng, có thể làm giảm một nửa số trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh, theo giáo sư William Tarnow-Mordi, Giám đốc các Thử nghiệm điều trị trẻ sơ sinh tại Trung tâm thử nghiệm lâm sàng NHMRC Đại học Sydney, Úc và là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu trẻ sơ sinh WINNER.
Phát hiện IVIG không tác dụng trong điều trị ung thư máu ở trẻ sơ sinh
Giáo sư Tarnow-Mordi, trưởng nhóm nghiên cứu tại Úc cho biết thêm: "Trong khi một số chuyên gia y tế thường xuyên khuyến cáo nên sử dụng IVIG để điều trị cho trẻ sơ sinh bị nghi ngờ mắc bệnh nhiễm trùng máu, thì những người khác lại chờ đợi các kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu INIS".

Điều trị bằngglobulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) thì tốn kém và nguồn cung cấp thì lại hạn chế. Phương pháp điều trị này đòi hỏi đáng kể thời gian và công sức để quản lý, với rủi ro gia tăng của tình trạng quá tải dịch truyền hoặc nguy cơ lây bệnh truyền nhiễm trong thời gian trẻ nằm viện.

‘Kết quả của nghiên cứu giúp khẳng định những nghi ngờ về tính hữu dụng của việc sử dụng globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch (IVIG) trong điều trị bệnh nhiễm trùng máu ở trẻ sơ sinh. Thay vì sử dụng IVIG ở trẻ sơ sinh,chúng ta có thể dành nguồn tài nguyên quý giá cho việc điều trị cho các đối tượng bệnh nhân khác hiệu quả hơn".

Phó Giáo sư John Ziegler, Chủ tịch của Hội Y Tế NSW nhóm người sử dụng IVIG, cho biết:"Các thành viên của Nhóm các nhà khoa học nghiên cứu Liệu pháp miễn dịch Trẻ sơ sinh Quốc tế (INIS) đã đạt thành tựu lớn trong nghiên cứu này. Điều này đã góp phần khuyến khích những nhà nghiên cứu khác tiếp tục theo đuổi nghiên cứu về tính hiệu quả và chi phí của việc sử dụng IVIG trong việc điều trị các căn bệnh khác, nơi mà vai trò cho IVIG còn chưa được khẳng định".

Giáo sư Warwick Anderson, Giám đốc điều hành của Hội đồng Nghiên cứu Y khoa và Sức khỏe Quốc gia, nói thêm: "Nghiên cứu Liệu pháp miễn dịch Trẻ sơ sinh Quốc tế minh họa tầm quan trọng của nghiên cứu chất lượng cao mang lại sự tin cậy cho các thử nghiệm điều trị lâm sàng ở tất cả nhóm tuổi".

Hơn 40% trẻ sơ sinh tham gia thử nghiệm này đã được tuyển chọn trong các khoa hồi sức cho trẻ sơ sinh tại Úc hoặc New Zealand, phối hợp thông qua Trung tâm Nghiên cứu thử nghiệm điều trị lâm sàng Hội đồng Nghiên cứu Y khoa và Sức khỏe Quốc gia Đại học Sydney, Úc.

Trên phạm vi toàn cầu, các thử nghiệm phối hợp với Khoa dịch tễ học chu kỳ sinh sản Quốc gia, tại Đại học Oxford, Hoa Kỳ, dẫn đầu bởi giáo sư Peter Brocklehurst.

Nghiên cứu này nhận được tài trợ bởi: Hội đồng Nghiên cứu Y khoa và Sức khỏe Quốc gia Úc, với sự tài trợ bổ sung bởi Hội đồng Nghiên cứu Y khoa Anh và Hội đồng Nghiên cứu Y tế New Zealand. Nguồn cung cấp IVIG tại Úc là từ nguồn dự trữ máu của Hội Chữ thập đỏ Úc và được tài trợ bởi chính phủ Úc.
Hồ Duy Bình (sydney.edu.au)
Posted by Unknown


Shawn Nielsen, nghiên cứu sinh về sinh học thần kinh và hành vi tại Đại học California, Irvine, Hoa Kỳ đã tiến hành một nghiên cứu với sự tham gia của 66 sinh viên nữ, phân nửa số nữ sinh viên này được cho uống thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày và một nửa còn lại thì không được uống.


Kết quả của nghiên cứu này đã được xuất bản trong tạp chí Neurobiology of Learning and Memory.

Những nữ sinh tham dự thí nghiệm này sẽ được trải qua đợt kiểm tra trí nhớ. Một số nữ sinh đã được chọn ngẫu nhiên để xem một bộ phim tình cảm kể về một cậu bé bị một chiếc xe hơi đâm phải trong khi đi bộ với mẹ của mình và sau đó cậu bé được đưa vội vã tới bệnh viện, nơi các bác sĩ lắp lại bàn chân bị cắt đứt của cậu bé. Những nữ sinh khác được xem câu chuyện ít gay cấn kể về: một bà mẹ và con trai chứng kiến một tai nạn nhỏ, trên đường đi đến bệnh viện.

Nielsen đang cố gắng đạt được học vị tiến sĩ của cô ấy trong phòng thí nghiệm của Larry Cahill (nhà nghiên cứu về hormone nổi tiếng), đã quan tâm đến sự khác biệt về mức độ hormone estrogen và hormone progesterone có thể ảnh hưởng đến trí nhớ. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng hormone estrogen có thể giúp tăng cường trí nhớ khi nói, trong một nghiên cứu khác, chẳng hạn, những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày nhận thấy rằng họ nhớ các từ vựng tốt hơn vào những ngày được uống thuốc ngừa thai so với những ngày mà họ không uống thuốc hoặc không có sự bổ sung thay thế về hormon.
Trong nghiên cứu này, sau khi những nữ sinh được xem phim họ đã được thử nghiệm về trí nhớ có liên quan đến cảm xúc, một tuần sau đó về những gì họ nhìn thấy: những người dùng thuốc ngừa thai có thể nhớ lại các chủ đề chung của bộ phim tốt hơn so với các chi tiết cụ thể của nó. Điều này cũng tương tự như cách thức mà người đàn ông nhớ lại các sự kiện tình cảm, Nielsen cho biết.

"Nếu chúng ta làm giảm mức độ cung cấp hormone sinh dục nữ, sự thay đổi trong các loại thông tin mà những nữ sinh viên này (những người dùng thuốc ngừa thai) nhớ lại là giống như những gì một người nam giới có thể nhớ", Nielsen nói. Thuốc tránh thai hoạt động bằng cách làm phẳng những gai tự nhiên có trong hormone estrogen và hormone progesterone và đó là những gì gây ra sự rụng trứng và báo hiệu cơ thể không bổ sung các kích thích tố, giữ mức hormone thấp trong suốt chu kỳ.

Kết quả ngược lại cho những nữ sinh viên không có sử dụng loại thuốc ngừa thai này: họ có thể ghi nhớ tốt hơn ở các chi tiết, chẳng hạn như: màu áo cậu bé trên đã mặc, người mẹ đeo kính, hoặc liệu rằng có vòi nước cứu hỏa tại giao lộ. Những nữ sinh viên không sử dụng thuốc ngừa thai có thể không nhớ lại những chủ đề chung của bộ phim như những chi tiết mà họ có thể nhớ.

Điều này không có nghĩa rằng thuốc ngừa thai làm chấm dứt bộ nhớ hoặc cướp đi khả năng nhớ lại những điều nổi bật của người phụ nữ. Nó chỉ là một vấn đề của những loại thông tin mà họ nhớ. Thuốc ngừa thai có tác dụng giữ hàm lượng hoóc môn ổn định trong suốt chu kỳ, những nữ sinh viên mang nó có xu hướng phản ứng khác nhau với những trải nghiệm thiên về cảm tính, so với phụ nữ trải qua sự trồi sụt tự nhiên hàng tháng và dòng chảy của hormone. Và điều này là quan trọng vì nhiều chứng bệnh tâm thần ảnh hưởng đến phụ nữ như: lo âu, trầm cảm và rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý - như là những biểu hiện cực đoan thiên về cảm tính diễn ra một cách tự nhiên.

"Điều quan trọng trong những phát hiện này là: hormone giới tính ảnh hưởng đến các loại thông tin giúp nhớ lại một sự kiện thiên về cảm xúc", Nielsen nói. "Kết quả của nghiên cứu này khẳng định rằng: những thay đổi này là một công cụ mạnh mẽ cho các nghiên cứu trong tương lai điều tra sinh học thần kinh cơ bản về những dạng rối loạn này".
"Đơn giản chỉ cần dùng thuốc và mức độ ức chế hormone sinh dục tự nhiên có thể ảnh hưởng đến những loại thông tin cụ thể mà bạn có thể nhớ từ một sự kiện nổi bật. Điều đó nói lên vai trò của hormone estrogen và hormone progesterone trong bộ nhớ, chúng ảnh hưởng đến cách một người phụ nữ nhớ lại một sự kiện cảm xúc trong cuộc sống của cô ấy", Nielsen nói.

Một sự hiểu biết tốt hơn về kết nối này có thể dẫn đến phương pháp điều trị hiệu quả hơn nhằm vào mục tiêu như các trình điều khiển nội tiết tố. Nielsen đã cố gắng tìm ra chính xác những gì mức độ của kích thích tố có liên quan với những thay đổi trong hồi ức.
Hiện tại, Nielsen chuẩn bị khởi động nghiên cứu bổ sung về tương quan giữa mức độ biến động của hormone estrogen và hormone progesterone tự nhiên ở những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai với những thay đổi trong các loại thông tin mà những phụ nữ này nhớ lại từ các sự kiện thiên về cảm xúc.
Hồ Duy Bình (Healthland)
Posted by Unknown

Monday, October 3, 2011



Shawn Nielsen, nghiên cứu sinh về sinh học thần kinh và hành vi tại Đại học California, Irvine, Hoa Kỳ đã tiến hành một nghiên cứu với sự tham gia của 66 sinh viên nữ, phân nửa số nữ sinh viên này được cho uống thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày và một nửa còn lại thì không được uống.
Kết quả của nghiên cứu này đã được xuất bản trong tạp chí Neurobiology of Learning and Memory.


Những nữ sinh tham dự thí nghiệm này sẽ được trải qua đợt kiểm tra trí nhớ. Một số nữ sinh đã được chọn ngẫu nhiên để xem một bộ phim tình cảm kể về một cậu bé bị một chiếc xe hơi đâm phải trong khi đi bộ với mẹ của mình và sau đó cậu bé được đưa vội vã tới bệnh viện, nơi các bác sĩ lắp lại bàn chân bị cắt đứt của cậu bé. Những nữ sinh khác được xem câu chuyện ít gay cấn kể về: một bà mẹ và con trai chứng kiến một tai nạn nhỏ, trên đường đi đến bệnh viện.

Nielsen đang cố gắng đạt được học vị tiến sĩ của cô ấy trong phòng thí nghiệm của Larry Cahill (nhà nghiên cứu về hormone nổi tiếng), đã quan tâm đến sự khác biệt về mức độ hormone estrogen và hormone progesterone có thể ảnh hưởng đến trí nhớ. Các nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng hormone estrogen có thể giúp tăng cường trí nhớ khi nói, trong một nghiên cứu khác, chẳng hạn, những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai dạng viên uống hàng ngày nhận thấy rằng họ nhớ các từ vựng tốt hơn vào những ngày được uống thuốc ngừa thai so với những ngày mà họ không uống thuốc hoặc không có sự bổ sung thay thế về hormon.
Trong nghiên cứu này, sau khi những nữ sinh được xem phim họ đã được thử nghiệm về trí nhớ có liên quan đến cảm xúc, một tuần sau đó về những gì họ nhìn thấy: những người dùng thuốc ngừa thai có thể nhớ lại các chủ đề chung của bộ phim tốt hơn so với các chi tiết cụ thể của nó. Điều này cũng tương tự như cách thức mà người đàn ông nhớ lại các sự kiện tình cảm, Nielsen cho biết.

"Nếu chúng ta làm giảm mức độ cung cấp hormone sinh dục nữ, sự thay đổi trong các loại thông tin mà những nữ sinh viên này (những người dùng thuốc ngừa thai) nhớ lại là giống như những gì một người nam giới có thể nhớ", Nielsen nói. Thuốc tránh thai hoạt động bằng cách làm phẳng những gai tự nhiên có trong hormone estrogen và hormone progesterone và đó là những gì gây ra sự rụng trứng và báo hiệu cơ thể không bổ sung các kích thích tố, giữ mức hormone thấp trong suốt chu kỳ.

Kết quả ngược lại cho những nữ sinh viên không có sử dụng loại thuốc ngừa thai này: họ có thể ghi nhớ tốt hơn ở các chi tiết, chẳng hạn như: màu áo cậu bé trên đã mặc, người mẹ đeo kính, hoặc liệu rằng có vòi nước cứu hỏa tại giao lộ. Những nữ sinh viên không sử dụng thuốc ngừa thai có thể không nhớ lại những chủ đề chung của bộ phim như những chi tiết mà họ có thể nhớ.

Điều này không có nghĩa rằng thuốc ngừa thai làm chấm dứt bộ nhớ hoặc cướp đi khả năng nhớ lại những điều nổi bật của người phụ nữ. Nó chỉ là một vấn đề của những loại thông tin mà họ nhớ. Thuốc ngừa thai có tác dụng giữ hàm lượng hoóc môn ổn định trong suốt chu kỳ, những nữ sinh viên mang nó có xu hướng phản ứng khác nhau với những trải nghiệm thiên về cảm tính, so với phụ nữ trải qua sự trồi sụt tự nhiên hàng tháng và dòng chảy của hormone. Và điều này là quan trọng vì nhiều chứng bệnh tâm thần ảnh hưởng đến phụ nữ như: lo âu, trầm cảm và rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý - như là những biểu hiện cực đoan thiên về cảm tính diễn ra một cách tự nhiên.

"Điều quan trọng trong những phát hiện này là: hormone giới tính ảnh hưởng đến các loại thông tin giúp nhớ lại một sự kiện thiên về cảm xúc", Nielsen nói. "Kết quả của nghiên cứu này khẳng định rằng: những thay đổi này là một công cụ mạnh mẽ cho các nghiên cứu trong tương lai điều tra sinh học thần kinh cơ bản về những dạng rối loạn này".
"Đơn giản chỉ cần dùng thuốc và mức độ ức chế hormone sinh dục tự nhiên có thể ảnh hưởng đến những loại thông tin cụ thể mà bạn có thể nhớ từ một sự kiện nổi bật. Điều đó nói lên vai trò của hormone estrogen và hormone progesterone trong bộ nhớ, chúng ảnh hưởng đến cách một người phụ nữ nhớ lại một sự kiện cảm xúc trong cuộc sống của cô ấy", Nielsen nói.

Một sự hiểu biết tốt hơn về kết nối này có thể dẫn đến phương pháp điều trị hiệu quả hơn nhằm vào mục tiêu như các trình điều khiển nội tiết tố. Nielsen đã cố gắng tìm ra chính xác những gì mức độ của kích thích tố có liên quan với những thay đổi trong hồi ức.
Hiện tại, Nielsen chuẩn bị khởi động nghiên cứu bổ sung về tương quan giữa mức độ biến động của hormone estrogen và hormone progesterone tự nhiên ở những phụ nữ dùng thuốc ngừa thai với những thay đổi trong các loại thông tin mà những phụ nữ này nhớ lại từ các sự kiện thiên về cảm xúc.
Hồ Duy Bình (Healthland)
Posted by Unknown

Sunday, October 2, 2011



Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Đan Mạch được trình bày tại Hội thảo thường niên của Hiệp hội Hô hấp châu Âu ở Amsterdam, uống rượu bia với một lượng vừa phải có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh hen suyễn.
Nhóm nghiên cứu trên đã tìm hiểu 19.349 cặp sinh đôi ở độ tuổi từ 12-41. Tất cả các đối tượng này đã hoàn thành một bảng câu hỏi vào thời điểm bắt đầu và kết thúc công trình nghiên cứu này để so sánh lượng hấp thụ cồn và nguy cơ phát triển bệnh hen suyễn trong hơn tám năm.
Kết quả cho thấy nguy cơ mắc bệnh hen suyễn thấp nhất nằm ở nhóm sử dụng rượu bia ở mức vừa phải.
Theo nhóm nghiên cứu trên, những người hiếm khi hay không bao giờ uống rượu bia thì có nguy cơ cao nhất mắc bệnh hen suyễn, cao hơn 1,4 lần.
Những người uống nhiều cũng có nguy cơ gia tăng phát triển bệnh hen suyễn, cao hơn 1,2 lần.
Nhà nghiên cứu Sofie Lieberoth thuộc bệnh viện Bispebjerg, Đan Mạch cho hay: “Việc uống rượu bia quá mức có thể gây ra những vấn đề về sức khỏe, các kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc sử dụng đồ uống có cồn với lượng vừa phải từ 1-6 đơn vị có thể giúp giảm nguy cơ phát triển bệnh hen suyễn”.
Theo Vietnam+
Posted by Unknown

Thursday, September 29, 2011



Các nhà nghiên cứu của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Cao cấp Tây Ban Nha, gọi tắt là CSIC, vừa mang đến một tin vui cho các bệnh nhân bị nhiễm virus HIV rằng họ đã hoàn thành giai đoạn 1 của quá trình sản xuất vắc-xin HIV. Vắc-xin có tên MVA-B sử dụng chính hệ miễn dịch của con người để chống lại virus HIV. MVA-B đã được chứng minh là có sức mạnh tương đương với các loại vắc-xin khác đang được thử nghiệm và thậm chí còn mạnh hơn chúng. 90% những người tình nguyện sử dụng MVA-B đã cho thấy có nhiều dấu hiệu tốt về khả năng kiểm soát sự phát triển của con virus thế kỷ này.

Vào năm 2008, người ta đã thử nghiệm lâm sàng vắc-xin MVA-B trên chuột và khỉ và thấy rằng nó có tác dụng rất tốt trong việc chống lại SIV, một loại virus làm suy giảm hệ miễn dịch của khỉ. Và nay để thử nghiệm khả năng bảo vệ của nó trước HIV, các nhà khoa học đã chính thức thử nghiệm lâm sàng loại vắc-xin này trên 30 người tình nguyện có sức khỏe tốt, trong đó có 24 người là được cho sử dụng MVA-B thật còn 6 người còn lại được cho dùng giả dược. Thời gian thử nghiệm kéo dài suốt 48 tuần.
Virus HIV
Virus HIV
Để tạo ra vắc-xin MVA-B, người ta đã cấy 4 gen của HIV vào một loại vắc-xin khác chữa bệnh đậu mùa là MVA. Hệ miễn dịch của những người tình nguyện sau khi được tiêm MVA-B sẽ phải ứng lại với MVA còn các gen của HIV sẽ không có khả năng tự tái tạo được nên quá trình này vô cùng an toàn đối với họ. Thêm vào đó, việc thử nghiệm lâm sàng loại vắc-xin mới này trên người khỏe mạnh giúp cho hệ miễn dịch của họ có thể phát hiện và chiến đấu với những thành phần của virus HIV. "Nó giống như việc bạn đưa một bức hình của HIV cho hệ miễn dịch để sau này nó có thể nhận biết được virus HIV vậy", ông Mariano Esteban, trưởng nhóm nghiên cứu của CSIC nói.
"Cơ thể của chúng ta chứa rất nhiều lympho bào, mỗi một lympho bào đó đều được lập trình để chống lại các tác nhân gây bệnh khác. Do đó việc huấn luyện các lympho bào này là một điều cần thiết để ta có thể chống lại các mầm bệnh, ví dụ như HIV, một loại virus mà bạn không thể nào tiêu diệt được nó một cách tự nhiên được".
Tiến sĩ Mariano Esteban, trưởng nhóm nghiên cứu vắc-xin MVA-B tại CSIC
Tiến sĩ Mariano Esteban, trưởng nhóm nghiên cứu vắc-xin MVA-B tại CSIC
Công trình thử nghiệm của nhóm cũng nói về 2 loại lympho bào khá quan trọng đó là lympho bào B và lympho bào T. Vắc-xin MVA-B sẽ kích thích quá trình sản sinh ra lympho bào B, có chức năng sản xuất các kháng thể chống lại sự tấn công của HIV vào những tế bào khỏe mạnh. Khi xét nghiệm máu của những bệnh nhân vào tuần thứ 48, người ra thấy rằng cơ thể của khoảng 72,7% số người thử thuốc đã phát triển được những kháng thể chống HIV. Tuy nhiên, điều làm nên tính hiệu quả của vắc-xin MVA-B đó là nó có thể "chiến đấu" dài hạn với các virus chứ không phải chỉ một vài lần. Để làm được điều này, cơ thể của chúng ta cần có lympho bào T, lympho bào này được sản sinh ra ngay từ lần đầu tiên cơ thể bị tấn công và sẽ tồn tại trong cơ thể suốt nhiều năm liền. Chức năng của lympho bào T là kích thích phản ứng miễn dịch của những tế bào bị virus tấn công, giúp cho nó có thể phát hiện và tiêu diệt được cả virus HIV. Xét nghiệm máu vào tuần thứ 48 cho thấy cơ thể của 85% bệnh nhân vẫn giữ được "bộ nhớ" của lympho bào T, tức là cơ thể họ vẫn lưu trữ được thông tin về virus HIV này.
Ông Mariano nói, "Vắc-xin MVA-B đáp ứng được những yêu cầu của một vắc-xin HIV". Mặc dù nó không thể loại bỏ HIV ra khỏi cơ thể nhưng hệ thống miễn dịch của người bệnh có thể giữ cho virus ở trong tầm kiểm soát được, không cho nó tiếp tục lây nhiễm các tế bào khác. Theo như CSIC cho biết, "Nếu MVA-B vượt qua được giai đoạn 2 và 3 của quá trình thử nghiệm lâm sàng và được đưa vào sản xuất thì trong tương lai, người ta có thể coi HIV giống như mụn mà thôi".
Theo Xã luận
Posted by Unknown

Tiến sĩ Chu Hoàng Long là đồng tác giả người Việt duy nhất được nhận giải thưởng Eureka 2011 - giải thưởng khoa học uy tín và danh giá nhất Australia được trao cho công trình nghiên cứu “Mô hình lưu lượng dòng chảy đo lường lượng nước có thể sử dụng cho sản xuất nông nghiệp và lượng nước cần dự trữ để bảo vệ môi trường”. Nhân dịp này, TS. Chu Hoàng Long đã dành riêng cho PV một bài trả lời đầu tiên về thành công của công trình nghiên cứu.
“Đề tài đưa ra một công cụ hiện thực để xác định cách thức phân bổ tài nguyên nước một cách tối ưu”

Tháng 9 năm nay giải thưởng Eureka 2011 - giải thưởng khoa học uy tín và danh giá nhất Australia được trao cho công trình nghiên cứu “Mô hình lưu lượng dòng chảy đo lường lượng nước có thể sử dụng cho sản xuất nông nghiệp và lượng nước cần dự trữ để bảo vệ môi trường” của nhóm nghiên cứu: GS. R.Quentin Grafton (chủ trì), GS. Tom Kompas, TS. Chu Hoàng Long đến từ Đại học Quốc gia Australia (ANU) và GS. Michael Stewardson ( Đại học Melbourne).
Đại học Quốc gia Australia là đối tác lâu năm và thân thiết của Ipsard. Tiến sĩ Chu Hoàng Long là đồng tác giả người Việt duy nhất được nhận giải. Nhân dịp này, TS. Chu Hoàng Long đã dành riêng cho Agroinfo một bài trả lời đầu tiên về thành công của công trình nghiên cứu. Agroinfo xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc:
-Thưa TS. Chu Hoàng Long, được biết ông và đồng sự mới nhận được giải thưởng Eureka 2011, giải thưởng quan trọng nhất cho những người làm khoa học của Australia, xin ông cho biết cảm nhận của mình khi được nhận giải thưởng cao quý này?
Cảm nhận đầu tiên của tôi là vui mừng. Rất vui vì nỗ lực của cả nhóm nghiên cứu trong đó có bản thân mình được mọi người ghi nhận. Và sau đó, chắc cũng giống mọi người khi đón nhận tin vui, tôi nhớ đến những người thân, các bạn bè, đồng nghiệp ở Úc cũng như ở Việt Nam đã từng hỗ trợ, giúp đỡ mình rất nhiệt tình.
-Trên cơ sở nào nhóm nghiên cứu quyết định chọn lĩnh vực này để nghiên cứu thưa ông?
 Một trong những vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên nước là cân đối giữa nước dành cho dân sinh và nước dành cho môi trường. Ở hầu hết các hệ thống sông trên thế giới, rất nhiều đập lớn được xây dựng để trữ nước, và từ những con đập này, nước được phân bổ cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt.
Điều này, một phần giúp thỏa mãn nhu cầu sử dụng nước của con người, nhưng đồng thời cũng gây ra những tác động không nhỏ tới môi trường, ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của người dân: chế độ thủy văn bị đảo lộn, các hệ thống sông bị cạn kiệt, các loài thủy sản không còn môi trường phát triển, các vùng sinh thái bị ảnh hưởng v.v.
Trong nhiều trường hợp, các tác động về môi trường là khá lớn, đặc biệt trong những giai đoạn thời tiết không thuận lợi, ví dụ khô hạn kéo dài 8-10 năm. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước cần có công cụ để xác định mức độ phân bổ nguồn nước một cách tối ưu và đề án nghiên cứu đã đưa ra một lời giải cho bài toán này.
-Đề tài được giải thưởng là đề tài nghiên cứu về phương án “Phân bố tài nguyên nước một cách tối ưu”, xin ông cho biết kết quả nghiên cứu của đề tài này và ý nghĩa thực tiễn ra sao?
Nhóm nghiên cứu đã phát triển một mô hình giúp xác định phân bổ nguồn nước thế nào để tối ưu hóa lợi ích của xã hội trong khi vẫn đảm bảo tính bền vững của môi trường. Mô hình này có thể áp dụng cho tất cả các hệ thống thủy lợi trên thế giới. Nếu muốn áp dụng vào khu vực nào, ta chỉ cần tính toán các tham số tương ứng với khu vực đó và đưa vào mô hình để tính ra cách phân bổ nguồn nước.
Để minh họa, mô hình được áp dụng cho một trường hợp cụ thể là vùng Murray Darling của Úc. Các phân tích cho thấy là việc ứng dụng kết quả của mô hình trong giai đoạn 2001-2009 tại vùng Murray Darling sẽ giúp tăng lợi ích ròng của xã hội lên khoảng từ 500 triệu đến 3 tỷ USD so với những gì đã thực sự đã diễn ra trong cùng thời gian.
-Có một điều mà chúng ta đang rất quan tâm, đó là sự tác động của các nghiên cứu khoa học đối với các nhà hoạch định chính sách. Theo quan điểm của ông, đề tài nghiên cứu này sẽ có những tác động và hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của các nhà hoạch định chính sách như thế nào?
Trường Kinh tế Quản trị Crawford của Đại học Quốc gia Úc, nơi tôi đang làm việc, là một trường chuyên tập trung vào hoạt động đào tạo và nghiên cứu ứng dụng cho chính sách. Đề tài này là một trong những hoạt động thuộc loại này vì kết quả nghiên cứu không bó hẹp trong phạm vi khoa học thuần túy mà còn nhằm tạo ra sự thay đổi trong chính sách quản lý nguồn nước và môi trường.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đã đưa ra một công cụ hiện thực cho các nhà hoạch định chính sách để xác định cách thức phân bổ tài nguyên nước một cách tối ưu. Ngoài ra, kết quả của mô hình còn cho thấy cách thức phân bổ tài nguyên nước cho môi trường nên được thực hiện theo chu kỳ (pulse effects).
Nói cách khác, khi có thể kiểm soát lưu lượng dòng chảy của các con sông, con người nên tạo ra chế độ thủy văn (ví dụ khoảng cách giữa 2 đợt lũ) gần giống như chế độ thủy văn trước khi các đập chứa nước được xây dựng. Điều này góp phần khẳng định một thực tế là để tối ưu hóa lợi ích của chính mình, con người không nên đi ngược lại với tự nhiên.
-Xin ông cho biết thêm về ý kiến đánh giá của các nhà khoa học chuyên ngành đối với đề tài nghiên cứu này?
 Việc đề tài được trao giải thưởng Eureka đã phần nào nói nên sự đánh giá tích cực của các nhà khoa học về nghiên cứu này. Như lời ông Frank Howarth, Giám đốc của Australia Museum đánh giá điều quan trọng là mô hình này có ý nghĩa toàn cầu bởi nó có thể áp dụng cho tất cả các hệ thống sông trên thế giới. Đây cũng là mô hình đầu tiên trên thế giới giúp các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách có căn cứ khoa học để đưa ra quyết sách phân bố nguồn nước có lợi cho cả môi trường và kinh tế.
Toàn văn bài nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí “Water Resource Research” số 47, năm 2011. Đây là một trong những tạp chí quan trọng nhất về tài nguyên nước. Các bài được công bố trên tạp chí này đều phải trải qua quá trình phản biện độc lập.
Theo nguyên tắc, nhóm nghiên cứu không được biết ai là người phản biện bài viết của mình nhưng chắc chắn họ đều là các chuyên gia tầm cỡ, nếu như không nói là hàng đầu thế giới. Ngay từ bản thảo đầu tiên, những nhà phản biện đều đã đánh giá cao về công trình này, chỉ gợi ý một số chỉnh sửa nhỏ để giúp người đọc dễ tiếp cận hơn với những khía cạnh kỹ thuật của bài viết.
-Ông có dự định thực hiện các nghiên cứu, ứng dụng khoa học và tham gia giảng dạy tại Việt Nam trong tương lai hay không?
 Ngoài nhu cầu cập nhật các tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu, tôi nghĩ một người làm khoa học cũng có nhu cầu phổ biến những tiến bộ này để góp phần nâng cao hiệu quả chung của xã hội. Vì vậy, tôi rất vui khi được tham gia vào công tác giảng dạy cũng như là các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học ở Việt Nam. Sắp tới, tôi sẽ tham gia giảng một khóa học về các phương pháp định lượng kinh tế ở trong nước.
Theo Agroinfo/Bee.net

Posted by Unknown