Gia sư tiếng anh - Tin học

Gia sư tiếng anh - Tin học

Dạy tin học ngoại ngữ mọi trình độ, đặc biệt dạy cấp tốc cho người đi làm, xuất cảnh, luyện thi chứng chỉ quốc gia A,B,C…

Gia sư tiếng anh - Tin học
Gia sư theo lớp

Gia sư theo lớp

Trung tâm gia sư Bình Minh tại tphcm nhận dạy tại nhà các lớp từ 1-12

Gia sư theo lớp
Gia sư theo môn

Gia sư theo môn

Toán – Lý – Hóa – Sinh – Văn – Sử – Địa – Ngoại Ngữ (Anh Hoa Pháp Nhật) – Tin Học – Nhạc- Họa …

Gia sư theo môn
Gia sư theo quận

Gia sư theo quận

Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Quận Gò Vấp,Tân Bình,Tân Phú,Bình Thạnh,Phú Nhuận,Thủ Đức, Bình Tân

Gia sư theo quận

Friday, June 1, 2012

Các nhà nghiên cứu Mỹ vừa phát hiện một loại protein mới trong máu của bệnh nhân nhiễm virus HIV có khả năng kìm hãm sự phát triển của loại virus chết người này, theo hãng tin IANS.

Người đứng đầu nhóm nghiên cứu, tiến sĩ Paolo Lusso tại Viện Nghiên cứu bệnh truyền nhiễm và dị ứng (Mỹ) cho hay, protein mới được gọi là CXCL4 hay PF-4 nằm trong nhóm protein hỗ trợ điều khiển sự di chuyển của các tế bào miễn dịch xung quanh cơ thể.

Phát hiện protein mới ngăn chặn virus HIV

Vào giữa thập niên 1990, các nhà nghiên cứu đã phát hiện bốn loại protein thuộc nhóm trên, trong đó có ba protein do chính ông Lusso và các cộng sự tìm ra, có chức năng kìm hãm virus HIV.

Những protein này cũng như CXCL4 có thể điều khiển mức độ sao chép virus trong người nhiễm HIV, tác động quá trình phát triển của virus.

Tuy nhiên, CXCL4 và bốn loại protein được phát hiện trước đó có nhiều điểm khác biệt. Chẳng hạn, CXCL4 đánh chặn trực tiếp lớp ngoài của virus HIV, trong khi những protein kia kìm hãm sự lây nhiễm của virus này bằng cách ngăn chặn một trong hai tế bào thụ cảm được gọi làCCR5 và CXCR4 mà virus dùng để xâm nhập tế bào miễn dịch.

Theo tiến sĩ Lusso, vị trí CXCL4 chặn đứng lớp vỏ bên ngoài của virus HIV dường như không giống với những vị trí khác vốn là mục tiêu của các loại thuốc hay kháng thể chống loại virus này.

Nhóm của ông Lusso cùng một số nhà khoa học khác đang xác định vị trí này, vốn có cấu trúc tinh thể cấp nguyên tử. Từ đó, các nhà nghiên cứu có thể tìm ra cách điều trị hay bào chế vắc-xin phòng chống HIV hiệu quả hơn.
Theo Thanh Niên
Posted by Unknown
Lần đầu tiên, một nhóm nhà khoa học quốc tế đã giải mã thành công bộ gene cà chua, mở đường cho nghiên cứu các biện pháp nâng cao hàm lượng dinh dưỡng, tạo mùi vị hấp dẫn hơn cũng như kéo dài vòng đời của loại cây này.


Theo công trình nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học Tự nhiên (Nature) của Anh số ra ngày 30/5, hơn 300 nhà nghiên cứu đến từ 14 quốc gia trên thế giới đã tiến hành phân tích cấu trúc gene của hai loại cà chua là các giống cà chua đã được lai tạo và cà chua mọc tự nhiên có xuất xứ từ Nam Mỹ.




Kết quả cho thấy cà chua có 35.000 gene, và tỷ lệ chênh lệch cấu trúc gene giữa hai loại cà chua này chỉ là 0,6%. Các nhà khoa học cũng cho biết về mặt di truyền học, bộ gene cà chua chỉ khác 8% so với khoai tây.

Ông Francisco Camara, chuyên gia thuộc Trung tâm Điều chỉnh gene của Tây Ban Nha, cho biết cà chua là một trong những loại cây trồng phổ biến nhất trên thế giới.

Kết quả giải mã bộ gene cà chua sẽ giúp con người hiểu biết sâu sắc hơn về sự tăng trưởng của các loài thực vật bậc cao khác, từ đó tìm ra các biện pháp hữu ích cho ngành nông nghiệp trong tương lai.

Cà chua thuộc họ Cà, hay còn gọi là họ Khoai tây (tên khoa học là Solanaceae) - gồm cả các loại cây có giá trị dinh dưỡng cao khác như khoai tây, hạt tiêu, cà tím cũng như một số loại cây thảo dược và cây gia vị khác...
Trước đó, các nhà khoa học đã giải mã bộ gene gạo, ngô, lúa mỳ, đậu tương, táo và dâu tây.
Theo Vietnam+
Posted by Unknown

Monday, May 28, 2012


Trong các bộ phim giả tưởng, tay và chân của siêu nhân mọc lại sau khi chúng bị chặt đứt. Các nhà khoa học khẳng định một ngày nào đó người bình thường cũng sẽ có khả năng tương tự.

Một số động vật lưỡng cư có thể tái tạo những bộ phận bị mất hoặc tổn thương trên cơ thể chúng. Chẳng hạn, khi loài giông mất chi, một bướu nhỏ sẽ nhanh chóng hình thành phía trên vết thương. Người ta gọi nó là mầm gốc (blastema). Trong vòng vài tuần mầm gốc biến đổi thành một chi mới có khả năng hoạt động y hệt chi cũ và không để lại sẹo.

Ban đầu giới khoa học cho rằng khả năng tái tạo bộ phận cơ thể của giông không liên quan tới cơ chế lành vết thương ở người. Nhưng các nhà nghiên cứu của Đại học Florida (Mỹ) mới phát hiện ra rằng khả năng này không quá bí hiểm và kỳ diệu như người ta vẫn tưởng. Thậm chí chúng ta còn có thể tìm ra cách ứng dụng nó trên cơ thể người.

Khả năng hồi sinh bộ phận cơ thể của giông rất giống quá trình lành vết thương ở động vật có vú. Chúng ta có quyền hy vọng rằng, một ngày nào đó loài người sẽ có khả năng tự tái tạo các mô”, giáo sư Malcolm Maden, một nhà sinh học của Đại học Florida, phát biểu. 

Giông Axolotl ở Mexico còn được gọi là quái vật nước bởi hình dạng kỳ lạ của chúng.  (Ảnh: National geographic)


Maden và cộng sự nghiên cứu giông Axolotl – loài có nguồn gốc từ Mexico và có khả năng tái tạo mọi bộ phận, kể cả tim. Ban đầu họ nghĩ rằng một loại tế bào có tên "pluripotent" trong cơ thể giông có thể biến thành mọi mô, bộ phận trên cơ thể chúng khi cần thiết. Nhưng sau đó nhóm chuyên gia phát hiện quá trình tái tạo bộ phận cơ thể của giông chỉ phức tạp hơn một chút so với quá trình làm lành vết thương ở người và động vật có vú.

Tế bào gốc là tác nhân gây nên hai quá trình trên. Song ở giông, tế bào gốc có khả năng nhận ra tế bào cùng loại. Vì thế chúng tự sắp xếp theo thứ tự chính xác để tái tạo bộ phận bị mất hoặc tổn thương. Tế bào gốc ở động vật có vú có thể làm lành vết thương hoặc nối liền những đoạn xương gãy, nhưng chúng không thể tái tạo chi hoặc dây thần kinh cột sống.

Nhóm nghiên cứu khẳng định bắt chước khả năng tái tạo chi của giông là việc mà nền khoa học hiện nay có thể làm được. Cơ chế tái tạo của giông hoàn hảo đến nỗi nó không để lại sẹo. Con người cũng có thể học được cơ chế đó.

Maden cho biết nhóm của ông sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu xem tại sao tế bào gốc của giông lại có thể nhận ra nhau và tự sắp xếp theo trình tự chính xác để tái tạo bộ phận cơ thể. “Nếu bạn hiểu nguyên nhân khiến giông có thể tái sinh bộ phận cơ thể thì bạn cũng sẽ hiểu tại sao động vật có vú không làm được điều tương tự”, ông nói. 

Minh Long - Vnexpress (Theo Telegraph)
Posted by Unknown

Saturday, May 26, 2012

Mới đây, các nhà khoa học Đan Mạch phát hiện một loài vi khuẩn sống dưới đáy sâu của Thái Bình Dương không cần ăn uống mà vẫn tồn tại suốt 86 triệu năm.




Sau khi tiến hành phân tích mẫu đất sét mềm màu đỏ dưới đáy hải lưu Pacific Gyre (khu vực biển hầu như không có sinh vật nào tiếp cận được đáy), các nhà nghiên cứu đã tìm thấy vi khuẩn cực hiếm này.

Sống 86 triệu năm không cần ăn uống

Theo Hans Roy, trưởng nhóm nghiên cứu, kiêm thành viên đội thám hiểm biển, khảo sát lớp trầm tích cổ được thành lập từ năm 2009, cho biết, loài sinh vật biển này sống vùi trong lớp đất sét dưới đáy hải lưu. Nơi đây không có bất kỳ loại chất dinh dưỡng nào có thể tiếp cận để nuôi loài vi khuẩn này.

“Cứ 1.000 năm, loài vi khuẩn trên mới phát triển được khoảng 1mm. Chúng đã xuất hiện dưới mặt đáy cách đây khoảng 86 triệu năm về trước chỉ với một hộp thức ăn. Điều đó chứng tỏ, chúng phải mất hàng nghìn năm để ăn và tiêu hóa hết lượng thức ăn tương đương với cơ thể mình” - Roy nói.

Theo Roy và các đồng nghiệp, vi khuẩn này có quá trình trao đổi chất chậm nhất thế giới với điều kiện sống thiếu oxy và chất dinh dưỡng để giúp chúng tồn tại.

Hiện tại, các nhà nghiên cứu chưa thể xác định chính xác tuổi đời của loài sinh vật này. Chúng có thể được tái tạo nhưng rất chậm với vạch xuất phát kể từ thời khủng long.

Nếu tái tạo thành công loài sinh vật này, các nhà khoa học có thể mở ra cơ hội phát triển sản phẩm chống lão hóa hiệu quả, giúp nâng cao tuổi thọ con người.
Tham khảo: Daily Mail
Theo Tiền Phong, Daily Mail
Posted by Unknown
Gần đây, người dân Trung Quốc hốt hoảng khi biết nước máy họ đang sử dụng bị nhiễm thuốc tránh thai.


Sau khi thành phần phổ biến trong hầu hết các loại thuốc tránh thai hoàn thành nhiệm vụ ngăn chặn mang thai ngoài ý muốn, nó sẽ bắt đầu cuộc đời thứ hai với vai trò chất gây ô nhiễm“cứng đầu”, làm biến đổi giới tính của nhiều động vật.

Cụ thể, chất ethinyl estradiol trong thuốc tránh thai không chỉ gây tác động mạnh, như khiến cá và động vật lưỡng cư bị chuyển giới - mà việc loại bỏ nó khỏi nguồn nước là cực kỳ khó, nên chất này thường có trong các dòng nước tự nhiên.

Vì rất nhiều phụ nữ trên khắp thế giới sử dụng thuốc tránh thai, nên đây là vấn đề toàn cầu. Liên minh châu Âu (EU) là tổ chức đầu tiên đặt ra nhiệm vụ loại bỏ ethinyl estradiol (thường gọi là EE2) khỏi nguồn nước. Tuy nhiên, như các nhà nghiên cứu cho biết, việc loại bỏ chất này không hề dễ dàng.

Hormone tổng hợp trong thuốc tránh thai gây tác động lớn tới nhiều loài động vật.
Hormone tổng hợp trong thuốc tránh thai gây tác động
lớn tới nhiều loài động vật. (Nguồn: Livescience)

Vấn đề ở chỗ chi phí để loại bỏ EE2 khỏi nước rất tốn kém. Ước tính chi phí để nâng cấp khoảng 1.360 nhà máy xử lý nước ngọt tại Anh và xứ Wales tới mức đạt tiêu chuẩn an toàn sẽ ngốn khoản tiền lên tới 41 - 47 tỷ USD, GS. Richard Owen ở ĐH Exeter (Anh) cho biết.

“Một câu hỏi lớn đặt ra là: chúng ta có sẵn sàng chi trả khoản tiền khổng lồ đó cho xã hội hay không? Hay, theo một cách khác, chúng ta thích sống chung với tác động môi trường đó?”Owen nói.
Bình luận trên tạp chí Nature, Owen và Susan Jobling, nhà khoa học nghiên cứu các chất độc trong môi trường ở ĐH Brunel, viết rằng cần có thêm các cuộc thảo luận rộng rãi về sự cần thiết trong việc ban hành quy định liên quan.

EE2, một loại hormone tổng hợp, được con người bài tiết qua nước thải, kèm theo một số loại estrogen khác. Sau khi EE2 gia nhập vào môi trường tự nhiên, cơ thể các loài cá và ếch phản ứng với hormone này như thể nó là loại estrogen tự nhiên, nên những con đực bị chuyển đổi giới tính, ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của chúng. Con đực chuyển giới thường sinh ra trứng trong tinh hoàn của chúng.

Vẫn chưa rõ EE2 trong nước cho ảnh hưởng tới chu kỳ sinh sản của động vật có vú hay không.

Màng lọc từ than củi là phương pháp loại bỏ các chất ô nhiễm như EE2 khỏi nước thải hiệu quả nhất. Các phương pháp khác cũng có thể hiệu quả, nhưng đòi hỏi đầu tư tốn kém, bà Jobling nói.

Theo Jobling, chỉ khi vấn đề này được đưa vào chương trình thảo luận chính sách thì xã hội mới không tiếp tục làm biến đổi hệ sinh thái thêm nữa.
Tham khảo: Livescience
Theo Đất Việt, Livescience
Posted by Unknown

Thursday, May 24, 2012

Những người ngủ ngáy kinh niên có nguy cơ tử vong vì bệnh ung thư cao gấp 4,8 lần bình thường, theo một nghiên cứu mới đây.


Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Y tế cộng đồng Wisconsin (Mỹ), chứng ngủ ngáy có thể làm tăng nguy cơ tử vong vì bệnh ung thư. Cụ thể, những người mắc chứng ngủ ngáy mức độ nhẹ có nguy cơ tử vong vì ung thư chỉ cao hơn 0,1 lần so với những người không mắc chứng ngủ ngáy.

Những người ngủ ngáy kinh niên có nguy cơ tử vong vì bệnh ung thư cao gấp 4,8 lần
Những người ngủ ngáy kinh niên có nguy cơ tử vong vì bệnh ung thư cao gấp 4,8 lần

Tuy nhiên, những người mắc chứng ngủ ngáy mức trung bình có nguy cơ chết vì bệnh ung thư cao gấp 2 lần so với người không ngủ ngáy.

Kết quả trên thu được sau khi các nhà khoa học phân tích số liệu của các nghiên cứu về giấc ngủ với 1.522 người trong vòng 22 năm qua, để tìm hiểu mối liên quan giữa chứng ngủ ngáy và nguy cơ mắc bệnh ung thư.
Những thí nghiệm trên chuột trước đây cũng phát hiện bằng chứng cho thấy tình trạng thiếu ôxy - do chứng ngủ ngáy - có thể là nguyên nhân khiến khối u phát triển.

Tiến sĩ Javier Nieto, người đứng đầu nghiên cứu, cho biết trên Daily Mail: “Những bằng chứng thu được từ các thí nghiệm trên chuột trước đây cho thấy mối liên quan giữa thiếu ôxy và nguy cơ mắc bệnh ung thư. Nghiên cứu của chúng tôi đã lần đầu tiên phát hiện mối quan hệ giữa chứng rối loạn thở trong lúc ngủ (SDB) và nguy cơ tử vong vì ung thư".


Theo các nhà khoa học, nếu mối quan hệ giữa SDB và nguy cơ tử vong vì ung thư được xác thực trong những nghiên cứu tiếp theo, việc chẩn đoán và điều trị chứng SDB ở bệnh nhân ung thư có thể sẽ giúp họ kéo dài sự sống.
Theo Vietnamnet, Dailymail
Posted by Unknown
Các nhà khoa học Israel tuyên bố đã biến đổi tế bào da của người bệnh thành tế bào cơ tim khỏe mạnh trong phòng thí nghiệm.


Liệu pháp mới cho phép hồi phục cơ tim đã bị tổn hại ở người suy tim
Liệu pháp mới cho phép hồi phục cơ tim đã bị tổn hại ở người suy tim - (Ảnh: SPL)
Đây là công trình có thể cứu sống vô số bệnh nhân suy tim, do sử dụng chính tế bào của người bệnh có thể tránh được tình trạng đào thải trong trường hợp ghép từ người khác.

Báo cáo trên chuyên san European Heart Journal cho thấy kết quả thí nghiệm ban đầu ở chuột hết sức hứa hẹn, dù ứng dụng điều trị trên thực tế có thể cần nhiều thời gian hơn.

Suy tim có nghĩa là tim không bơm đủ máu cho cơ thể như trường hợp tim khỏe mạnh, do các tế bào cơ tim bị hủy hoại.

Trong một nghiên cứu mới nhất, nhóm chuyên gia của Israel đã lấy tế bào da của hai bệnh nhân nam bị suy tim, sau đó trộn lẫn những tế bào này với hỗn hợp hóa chất và gene trong phòng thí nghiệm để tạo ra tế bào gốc.

Sản phẩm của quá trình trên được biến thành tế bào tương đồng như tế bào cơ tim. Khi cấy vào chuột thí nghiệm, chúng bắt đầu kết nối với các tế bào cơ tim xung quanh.

BBC dẫn lời trưởng nhóm Lior Gepstein cho biết, công trình nghiên cứu của ông và đồng sự đã chứng tỏ được rằng có thể dùng tế bào da từ một bệnh nhân già yếu và biến thành tế bào cơ tim "trẻ và khỏe mạnh" giống như thời điểm người này mới chào đời.
Theo Thanh Niên, BBC
Posted by Unknown

Wednesday, May 23, 2012

Các nhà nghiên cứu ở ĐH Oxford (Anh) và Bảo tàng động vật Lausanne đang đề nghị những ai cho rằng quái vật khổng lồ bí ẩn thực sự tồn tại cung cấp bằng chứng để họ thực hiện giám định gene.


“Xin mời các nhà nghiên cứu sinh vật học bí hiểm đưa ra bằng chứng thay vì phàn nàn rằng khoa học đang phản đối những gì họ muốn nói", nhà di truyền học Bryan Sykes ở ĐH Oxford nói. Sykes không hy vọng sẽ tìm được bằng chứng đáng tin cậy về người tuyết hay quái vật Bigfoot nào, nhưng ông vẫn cởi mở và sẵn sàng thu thập bằng chứng của các sinh vật đáng ngờ hoặc chưa từng được khám phá trước đây.

Dự án sinh vật giống người được phối hợp thực hiện bởi ĐH Oxford và vườn thú Lausanne.

Dù những đồn đại về sinh vật khổng lồ bí hiểm được lưu truyền nhiều năm nay nhưng chưa ai đưa ra được bằng chứng chắc chắn.
Dù những đồn đại về sinh vật khổng lồ bí hiểm được lưu truyền
nhiều năm nay nhưng chưa ai đưa ra được bằng chứng chắc chắn.

Câu chuyện về quá vật đầy lông khổng lồ ở vùng núi Himalaya bắt đầu được mọi người truyền tai nhau vào năm 1951, khi nhà leo núi người Anh Eric Shipton kết thúc chuyến thám hiểm đỉnh Everest với một số bức ảnh chụp những vết chân khổng lồ trên tuyết.

Sinh vật bí hiểm được gọi với nhiều tên khác nhau ở các vùng khác nhau, như yeti hay migoi ở vùng Himalaya, Bigfoot hay yêu quái khổng lồ ở Mỹ và Canada, almasty ở vùng núi Caucasus, orag pendek ở Sumatra. Những câu chuyện về những sinh vật như thế luôn được lan truyền khắp thế giới kể từ đó đến nay, nhưng chưa có bằng chứng thực sự nào tồn tại. Vì thế, câu chuyện về chúng có vẻ như nói về động vật nào đó đã từng biết đến.

Sykes không muốn chỉ nhận được các mẫu da, tóc bừa bãi, mà người giao mẫu vật còn phải gửi mô tả chi tiết về các mẫu “người tuyết”. Sau khi xem xét các chi tiết về đặc điểm, mô tả nguồn gốc và ý tưởng quanh mẫu vật, Sykes và các đồng nghiệp sẽ gửi mẫu thích hợp đi để nghiên cứu kỹ lưỡng.

Một giả thuyết về người tuyết cho rằng nó thuộc về một giống có hình dáng gần giống con người, như người Neanderthal hay Denisovan. Nhưng Sykes nói rằng ý tưởng này khó có thể chứng minh là sự thật.
Tham khảo: Discovery
Theo Đất Việt, Discovery
Posted by Unknown