Gia sư tiếng anh - Tin học

Gia sư tiếng anh - Tin học

Dạy tin học ngoại ngữ mọi trình độ, đặc biệt dạy cấp tốc cho người đi làm, xuất cảnh, luyện thi chứng chỉ quốc gia A,B,C…

Gia sư tiếng anh - Tin học
Gia sư theo lớp

Gia sư theo lớp

Trung tâm gia sư Bình Minh tại tphcm nhận dạy tại nhà các lớp từ 1-12

Gia sư theo lớp
Gia sư theo môn

Gia sư theo môn

Toán – Lý – Hóa – Sinh – Văn – Sử – Địa – Ngoại Ngữ (Anh Hoa Pháp Nhật) – Tin Học – Nhạc- Họa …

Gia sư theo môn
Gia sư theo quận

Gia sư theo quận

Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Quận Gò Vấp,Tân Bình,Tân Phú,Bình Thạnh,Phú Nhuận,Thủ Đức, Bình Tân

Gia sư theo quận
Showing posts with label Công-nghệ-mới. Show all posts
Showing posts with label Công-nghệ-mới. Show all posts

Thursday, February 14, 2013


Blog sinh học: Qua kinh nghiệm cá nhân và tiếp xúc với các đồng nghiệp trong nước, tác giả cho rằng một phần của vấn đề là do các nhà khoa học nước ta thiếu kỹ năng phân tích dữ kiện và kỹ năng thông tin (communication skill). Đại đa số các tạp chí khoa học quốc tế đều sử dụng tiếng Anh để truyền đạt thông tin. Đó là một trở ngại lớn vì có nhiều nhà khoa học nước ta chưa quen với tiếng Anh, và ngay cả đối với các nhà khoa học thạo tiếng Anh, thì họ lại thiếu kỹ năng viết bài báo khoa học. Bài viết này chỉ bàn đến kỹ năng thông tin, mà cụ thể là viết một bài báo khoa học, nhằm chia sẻ một số kinh nghiệm với các đồng nghiệp và bạn trẻ trong nước.

http://sinhhoc.blogspot.com

Tại sao phải công bố báo cáo khoa học?

Trong hoạt động NCKH, các bài báo khoa học đóng một vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là bản báo cáo về một CTNC, mà còn là một đóng góp cho kho tàng tri thức của thế giới. Khoa học tiến bộ cũng nhờ một phần lớn vào thông tin từ những bài báo khoa học, bởi vì qua chúng mà các nhà khoa học có dịp trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Một CTNC thường được tài trợ từ các cơ quan nhà nước, và số tiền này là do dân chúng đóng góp. Khi tiến hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phải nhờ đến sự tham gia của tình nguyện viên hay của bệnh nhân. Trong trường hợp đó, tình nguyện viên và bệnh nhân phải dành thời gian để tự nguyện cung cấp thông tin và có khi hy sinh một phần xương máu cho nhà nghiên cứu. Nếu một CTNC đã hoàn tất mà kết quả không được công bố, thì CTNC đó có thể xem là có vấn đề về y đức và đạo đức khoa học, và nhà nghiên cứu có thể xem như chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình với sự đóng góp của quần chúng. Do đó, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một nghĩa vụ của nhà nghiên cứu, là một cách gián tiếp cảm ơn sự đóng góp của bệnh nhân và giúp đỡ của dân chúng qua sự quản lý của nhà nước.

Đối với cá nhân nhà khoa học, bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học quốc tế là một “currency”. Đó là những viên gạch xây dựng sự nghiệp của giới “khoa bảng”. Tại các đại học ở phương Tây, số lượng và chất lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn số một trong việc xét đề bạt, lên chức. Vì thế, việc công bố báo cáo khoa học đối với giới “khoa bảng” Tây phương là một ưu tiên hàng đầu của họ. Chính vì thế mà ở đó có văn hóa “publish or perish” (xuất bản hay là tiêu tan). Nếu trong vòng 1 hay 2 năm mà nhà khoa học không có một bài báo nào đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế, ban giám hiệu sẽ mời vị đó trả lời câu hỏi “tại sao”. Nếu không có lý do chính đáng thì người đó có thể bị mất chức.

Như vậy, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một việc làm chính yếu, một nghĩa vụ và một điều kiện để tồn tại của một nhà khoa học. Nhưng từ lúc tiến hành nghiên cứu, thu thập dữ kiện đến lúc có báo cáo là một quá trình gian nan. Một công việc còn gian nan hơn nữa là làm sao đảm bảo báo cáo được đăng trên một tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới. Vì thế, các nhà khoa học cần phải đặc biệt chú ý đến việc soạn thảo một bài báo khoa học sao cho đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bài viết này sẽ chỉ ra một cách thân mật những “mẹo” và kỹ năng để đạt tiêu chuẩn đó.

Bài báo khoa học: khổ hạnh

Mỗi bài báo khoa học là một công trình khổ hạnh. “Khổ hạnh” ở đây phải được hiểu theo nghĩa vừa đau khổ, vừa hạnh phúc. Đau khổ trong quá trình chuẩn bị và viết thành một bài báo và hạnh phúc khi nhìn thấy bài báo được công bố trên một tạp chí có nhiều đồng nghiệp đọc và chia sẻ. Để đạt kết quả sau cùng này, tác giả phải phấn đấu làm sao để giữ được sự cân bằng giữa tính trong sáng với nội dung (phải đầy đủ). Bài báo phải được viết bằng một văn phong cực kỳ súc tích, nhưng phải đầy đủ, làm sao hấp dẫn được người đọc và để người đọc “nhập cuộc”. Đó là những yêu cầu rất khó mà không phải tác giả nào cũng đạt được.

Nếu không tiếp cận vấn đề một cách có hệ thống, tất cả những nỗ lực cho một bài báo khoa học có thể trở nên vô dụng, thậm chí đem lại ảnh hưởng xấu vì một CTNC sẽ không có cơ hội xuất hiện trên các tạp chí chuyên ngành. Mặc dù ở các nước phương Tây, người ta đã có nhiều bài viết chỉ dẫn – thậm chí có cả sách dạy – cách viết một bài báo khoa học, nhưng ở nước ta, hình như vẫn chưa có một tài liệu chỉ dẫn nào như thế.

Vạn sự khởi đầu nan…

Viết một bài báo tốt là một việc làm không đơn giản chút nào, nếu không muốn nói là phức tạp. Nó đòi hỏi người viết phải sáng tạo và suy tưởng… trong lặng lẽ. Con đường dẫn đến một sản phẩm hoàn hảo không bao giờ là một con đường thẳng, mà là một con đường với nhiều ngõ ngách, nhiều đường cùng và nhiều chông gai. Nói một cách ngắn gọn, viết cần phải có thời gian. Thành ra, cách tốt nhất là phải khởi công viết càng sớm càng tốt, đừng bao giờ để cho đến giai đoạn cuối của nghiên cứu mới viết. Tác giả có thể viết ngay những phần cần viết ra của bài báo trong khi CTNC vẫn còn tiến hành. Phác họa ra phần dẫn nhập (introduction) ngay từ khi CTNC đang được thai nghén. Viết phần phương pháp (methods) ngay trong khi CTNC còn dở dang. Làm đến đâu, viết ngay đến đó. Sau cùng là một phác họa những biểu đồ, bảng thống kê cần phải có trong bài báo. Việc sớm viết ra những ý tưởng và phương pháp giúp rất nhiều cho nhà nghiên cứu trong những lần sửa chữa sau này. Chẳng hạn như: làm sáng tỏ động cơ và lý do nghiên cứu trong phần dẫn nhập giúp cho nhà nghiên cứu nhận ra bối cảnh mà CTNC có thể đóng vai trò. Viết ra những phương pháp nghiên cứu giúp cho nhà nghiên cứu khỏi phải tốn công xây dựng lại những bước đi, những thủ tục mà CTNC đã hoàn tất. Việc phác thảo ra những biểu đồ và bảng số liệu giúp cho nhà nghiên cứu tập trung vào nỗ lực phân tích dữ kiện. Và quan trọng hơn hết, những việc làm đó tạo cơ hội cho (hay nói đúng hơn là bắt buộc) nhà nghiên cứu phải suy nghĩ nghiêm túc về việc làm của mình.

Một điều quan trọng khác là tác giả cần phải bỏ ra một thời gian tĩnh tâm suy nghĩ về thông điệp của CTNC cho cộng đồng khoa học. Trong phần này, tác giả nên viết ra những điểm chính nhằm trả lời các câu hỏi: tại sao làm? thực tế đã làm gì? phát hiện điều gì mới lạ? có ý nghĩa gì?

Tập trung vào những thông tin chính

Mặc dù thành phần độc giả của các tạp chí khoa học có thể rất đa dạng, nhưng đều có một đặc tính chung là bận rộn. Giới khoa học, nhà quản lý, lãnh đạo… có lẽ chỉ nhìn qua bài báo khoa học một cách nhanh chóng, chứ ít khi có thì giờ nghiền ngẫm từng chi tiết trong bài báo. Tuy rằng phần lớn tác giả nghiên cứu biết điều này, nhưng họ có thể không nghĩ đến khi đặt bút viết bài báo khoa học. Do đó, tác giả nên tự đặt mình vào vai trò của người đọc và suy nghĩ như người đọc bằng cách chú ý đến những gì mà người đọc muốn tìm hiểu: tựa đề bài báo, bản tóm tắt (abstract), những bảng số liệu và biểu đồ.

Phác thảo một cách hệ thống

Tiếp cận và phác họa cấu trúc của một bài báo trước khi đặt bút viết sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho tác giả sau này. Bước đầu tiên đòi hỏi tác giả phải biết tạp chí mà mình muốn gửi bài báo, bởi vì mỗi tạp chí có những yêu cầu khác nhau về hình thức cũng như nội dung. Một khi đã xác định được tạp chí sẽ đăng bài, tác giả cần phải xem qua phong cách và hình thức bài báo mà tạp chí đó quy định. Đặc biệt là phải xem qua các bài báo đã được công bố trên tạp chí đó, như số lượng chữ là bao nhiêu, biểu đồ phải trình bày như thế nào, bảng số liệu phải viết ra sao, trình bày phần tài liệu tham khảo theo cách gì… Phần lớn các tạp chí y khoa và sinh học đều tuân thủ theo các quy định được công bố trong tài liệu Uniform Requyrements for Manuscripts Submitted to Biomedical Journals.

Có nhiều “chiến lược” để thu hút người đọc theo dõi bài báo của mình. Cách tốt nhất và hiệu quả nhất có lẽ là ngắn gọn. Không nên nhầm lẫn giữa sự phức tạp với tính tinh vi. Câu văn cần phải ngắn gọn, đơn giản, nhưng chính xác và trực tiếp đi thẳng vào vấn đề. Cũng cần phải nhận thức rằng, có được một bài báo khúc chiết như thế không phải là điều dễ dàng chút nào – nó đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian và suy nghĩ. Một bài báo khoa học hay cần phải được cấu trúc gọn gàng. Mỗi đoạn văn cần phải có một mục đích hay nói lên được một ý tưởng. Mỗi câu văn phải phục vụ cho mục đích đó. Các đoạn văn phải liên kết với nhau thành một chuỗi ý tưởng phản ánh lý luận cho một thông điệp nào đó. Cấu trúc mà các tạp chí y khoa và sinh học thường sử dụng cho một bài báo là: dẫn nhập, phương pháp, kết quả và thảo luận. Cấu trúc này còn được gọi là IMRAD (Introduction Methods Results And Discussion).

Dẫn nhập

“Nhiệm vụ” thiết yếu nhất trong phần dẫn nhập là phải làm cho người đọc tiếp nhận bài báo và quan tâm đến kết quả của CTNC. Hơn nữa, phần dẫn nhập còn giúp cho người biên tập bài báo hay tổng biên tập tạp chí thẩm định tầm quan trọng của nó. Trong phần dẫn nhập, tác giả phải nói rõ tại sao CTNC ra đời và tại sao người đọc phải quan tâm đến công trình đó.

Phương pháp

Phần phương pháp phải cung cấp một cách chi tiết những gì tác giả đã làm và làm như thế nào trong CTNC. ở đây, tác giả phải cẩn thận quân bình giữa hai nhu cầu: súc tích (vì không thể mô tả tất cả các kỹ thuật với những chi tiết chi li) và đầy đủ (tác giả phải trình bày đầy đủ thông tin sao cho người đọc biết được những gì đã làm). Đạt được sự cân đối giữa súc tích và đầy đủ là một thách thức đối với người viết, và có thể đối với cả người biên tập và nhà xuất bản. Phần phương pháp cần phải cung cấp cho người đọc những thông tin liên quan đến tính khái quát hóa (chẳng hạn như đối tượng nghiên cứu là ai, có tiêu chuẩn nào tuyển chọn đối tượng hay không, hay cách thức chọn mẫu như thế nào…). Có thể bài báo đề ra một phương pháp mới, và trong trường hợp đó, tác giả cần phải chú ý những tên gọi (và ý tưởng) xuất hiện nhiều lần trong bài báo. Tác giả nên suy nghĩ kỹ về những tên gọi này: phải dùng chữ ngắn gọn mà dễ hiểu. Kinh nghiệm người viết bài này cho thấy, trước khi viết cần phải liệt kê ra danh sách những từ hay sử dụng trong bài báo. Không có gì làm người đọc lẫn lộn và khó chịu hơn là việc dùng nhiều từ khác nhau để gọi tên một hiện tượng!

Một cấu trúc cứng nhắc sẽ làm cho phần phương pháp trở thành máy móc. Nhưng đó lại là cấu trúc mà các tạp chí y khoa đòi hỏi các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên. Trong cấu trúc này, tác giả phải viết dưới các tiêu đề như khái quát, nơi làm nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn đối tượng, chỉ tiêu chính, chỉ tiêu phụ của nghiên cứu, cách đo lường, phương pháp phân tích dữ kiện…

Trong các nghiên cứu khác, tác giả có thể tự mình sáng tạo ra những tiêu đề thích hợp với CTNC. Ngay cả nếu tác giả sau này phải xóa bỏ các tiêu đề này thì bố cục của chúng cũng giúp ích cho tác giả rất nhiều. Có thể dùng một biểu đồ như là một cách mô tả quy trình nghiên cứu (chẳng hạn như thiết kế, tuyển chọn bệnh nhân và phân tích dữ kiện). Nếu cần, tác giả có thể thêm phần phụ lục để cung cấp chi tiết về phương pháp phân tích, mã (codes) dùng trong máy tính, hay phương pháp thu thập dữ kiện cùng phương pháp đo lường (đây là những phương pháp có thể giúp cho người duyệt bài hay người đọc có thể lặp lại thử nghiệm).

Kết quả

Phần kết quả phải được viết một cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề nêu ra trong phần dẫn nhập. Tác giả phải trả lời cho được câu hỏi: đã phát hiện gì? Cần phải phân biệt rõ đâu là kết quả chính và đâu là kết quả phụ. Phần kết quả phải có biểu đồ, bảng số liệu và những dữ kiện này phải được diễn giải một cách ngắn gọn trong văn bản. Những số liệu này phải lần lượt trả lời các mục đích mà tác giả đã nêu ra trong phần dẫn nhập. Tất cả các bảng thống kê, biểu đồ và hình ảnh phải được chú thích rõ ràng; tất cả những ký hiệu phải được đánh vần hay chú giải một cách cụ thể để người đọc có thể hiểu được ý nghĩa của những dữ kiện này. Trong phần kết quả, tác giả chỉ trình bày sự thật và chỉ sự thật (facts), kể cả những sự thật mà nhà nghiên cứu không tiên đoán trước được hay những kết quả “tiêu cực” (ngược lại với điều mình mong đợi). Trong phần kết quả, tác giả không nên bình luận hay diễn dịch những kết quả này cao hay thấp, xấu hay tốt, vì những nhận xét này sẽ được đề cập đến trong phần thảo luận.

Thảo luận

Đối với đa số các nhà nghiên cứu, đây là phần khó viết nhất vì nó không có một cấu trúc cố định nào cả. Nói một cách ngắn gọn, trong phần này, tác giả phải trả lời câu hỏi: những phát hiện này có nghĩa gì? Tuy không phải theo cấu trúc cố định nào, nhưng các tác giả có kinh nghiệm thường viết phần thảo luận theo cấu trúc sau: (a) giải thích những dữ kiện trong phần kết quả; (b) so sánh những kết quả này với các nghiên cứu trước; (c) bàn về ý nghĩa của những kết quả; (d) chỉ ra những ưu điểm và khuyết điểm của CTNC; (e) sau cùng là một kết luận sao cho người đọc có thể lĩnh hội được một cách dễ dàng.

Trong phần thảo luận, tác giả phải giải thích, hay đề nghị một mô hình giải thích, tại sao những dữ kiện thu thập được có xu hướng đã quan sát trong cuộc nghiên cứu. Nếu không giải thích được thì nhà nghiên cứu phải thành thật nói không biết. Tác giả còn phải so sánh với kết quả của những nghiên cứu trước và giải thích tại sao chúng khác nhau hoặc giống nhau, và ý nghĩa của chúng là gì. Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn phải có trách nhiệm tự mình vạch ra những thiếu sót, trắc trở, khó khăn cùng những ưu điểm của CTNC, cũng như đưa ra các giải pháp khắc phục hay đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai.

Hỗ trợ từ đồng nghiệp

Những bài báo khoa học có giá trị thường là những bài báo đã được xem xét và duyệt đi duyệt lại nhiều lần, kể cả những lần phản hồi (response) hay phản biện lại những phê bình của những người bình duyệt. Điều này đòi hỏi bài báo, trước khi gửi đến một tạp chí, phải được các đồng nghiệp nội bộ đọc và phê bình. Tác giả không nên ngần ngại tiếp nhận những phê bình gay gắt từ đồng nghiệp. Để làm việc này, tác giả cần phải có một danh sách những đồng nghiệp có thể duyệt bài. Những đồng nghiệp này không hẳn phải là những tên tuổi lớn mà có thể là nghiên cứu sinh. Thật ra, các giáo sư ít khi có thì giờ đọc kỹ; chính các nghiên cứu sinh hay đồng nghiệp cấp thấp thường là những người có khả năng và có thì giờ chăm chú, có động cơ để cho ý kiến một cách nghiêm chỉnh. Có hai nhóm đồng nghiệp có thể làm người duyệt bài trước khi gửi đăng tạp chí:

- Những người bình duyệt chung, nhiệm vụ chính của họ là xem xét cách viết của tác giả có dễ hiểu hay không. Bất cứ ai, kể cả những người không cùng chuyên môn, cũng có thể là người duyệt bài trong nhóm này, nhưng người duyệt bài lý tưởng nhất là người có nỗ lực suy nghĩ cẩn thận.

- Những người bình duyệt có cùng chuyên môn, nhiệm vụ của họ là giúp tác giả chuẩn bị để đối phó với những người bình duyệt của tạp chí và ban biên tập. Trong nhóm này, tác giả cần một hay hai thành viên trong cùng chuyên môn và có khả năng “soi mói” chi tiết hay nêu ra những sai sót của bài báo hay CTNC (chẳng hạn như nghiên cứu có đúng phương pháp không, diễn dịch có logic không, kết luận có đi ra ngoài dữ kiện không…). Trong nhóm này, người duyệt lý tưởng là một người “khó tính” sẵn sàng nói thẳng với tác giả những gì họ nghĩ, thậm chí không mấy có cảm tình với ý tưởng của tác giả.

Cải tiến

Muốn trở thành một tác giả khoa học tốt cần phải có thời gian. Một bài báo khoa học thường nhằm vào một vấn đề hẹp. Nhưng tác giả phải có một cái nhìn rộng và lớn hơn khi đọc bài báo của mình. Cần phải đặt bài báo và kết quả nghiên cứu vào một bối cảnh lớn hơn để thấy thành quả ra sao hay những gì cần phải làm tiếp trong tương lai. Nhiều tác giả thiếu kiên nhẫn vì họ chỉ muốn gửi bài báo đi càng sớm càng tốt, nhưng đó không phải là một hành động có hiệu quả cao. Do đó, điều thứ nhất là không nên hấp tấp trong khi viết. Sau khi viết xong bản thảo, có thể để đó vài ngày hay vài tuần. Sau đó, đọc lại và xem xét những chi tiết nào cần thêm hay cần bỏ đi. Đọc đi đọc lại với một cách nhìn mới để xem có gì cần phải phân tích thêm hay không, hay cách diễn dịch số liệu có hợp lý hay không. Kiểm tra lại cách viết và các đoạn văn có ăn khớp với nhau hay không, câu văn có trôi chảy hay không… Sau đó là xem xét đến những chi tiết. ở đây có 2 điểm quan trọng cần phải để ý là: thứ nhất, kiểm tra tính nhất quán (cả số liệu hay dữ kiện và các chú thích phải nhất quán với văn bản, bảng thống kê và biểu đồ); thứ hai, loại bỏ “nhiễu” – tức là những điểm lặp đi lặp lại hay những điểm làm cho người đọc sao lãng thông điệp chính trong bài báo. Có khi cần phải kiểm tra từng chữ một xem nó có thích hợp với mục đích của bài báo hay không. Tránh dùng những từ tối nghĩa, những biệt ngữ khó hiểu, hay những viết tắt mà người ngoài chuyên môn chưa quen biết.

Một bài báo thường phải qua bình duyệt từ ban biên tập của tạp chí. Nếu tạp chí cho tác giả cơ hội trả lời những phê bình này, đó là một bước tiến tích cực. Tuy nhiên, việc trả lời những phê bình của ban biên tập không phải lúc nào cũng là việc làm thoải mái, dù sau khi phản biện thì bài báo sẽ tốt hơn. Trong khi trả lời phê bình, điều tối quan trọng là không nên có thái độ quá chống chế, hay quá công kích người phê bình. Tác giả có nhiệm vụ phải trả lời từng câu hỏi một, từng điểm phê bình một, và trả lời một cách lịch sự. Nếu tác giả không đồng ý với người bình duyệt, tác giả có quyền nói thẳng. Thông thường, sau khi trả lời bình duyệt, bài báo phải có sửa đổi, và tác giả phải thông báo cho ban biên tập biết những chỗ nào đã thay đổi và tại sao thay đổi.

Khoa học là một môi trường hoạt động khá bình đẳng. Công trình của tác giả có người khác bình duyệt, và tác giả cũng có cơ hội bình duyệt công trình của người khác. Thành ra, để giúp đỡ đồng nghiệp và để tự mình cải tiến, tác giả nên nhận lời bình duyệt CTNC của các đồng nghiệp. Nếu cảm thấy học hỏi được một vài điều từ việc trả lời phê bình của người khác, tác giả cũng có thể học hỏi nhiều điều từ việc đọc và phê bình công trình của đồng nghiệp. Qua đọc và xem xét cẩn thận, tác giả sẽ cảm thấy mình trưởng thành và thoải mái với các nguyên lý và sự sắp xếp của các lý giải trong một bài báo khoa học. Làm người bình duyệt là một hình thức tự mình nâng cao kỹ năng nghiên cứu: nhận dạng nhầm lẫn của người khác cũng có nghĩa là nâng cao kỹ năng nhận dạng nhầm lẫn của chính mình.

Ai trong chúng ta cũng muốn là tác giả của những bài báo khoa học tốt, những bài báo mà chúng ta có thể tự hào và hy vọng sẽ được trích dẫn nhiều, được lưu truyền lâu trong tương lai. Tuy nhiên, dù chúng ta có cẩn thận mấy, và bất kể bao nhiêu lần chúng ta đọc đi đọc lại, rà soát, xác suất bài báo có ít nhất là một sai lầm hay lỗi nhỏ đều rất cao. Một cá nhân rất khó mà phát hiện tất cả các lỗi lầm của chính mình. Điều đó có nghĩa là tác giả cần đồng nghiệp, những người đọc và phê bình một cách nghiêm túc và thành thật. Tác giả cần phải bỏ tính tự ái, và không nên sợ hãi trước những phê phán. Theo kinh nghiệm của người viết bài này, những phê phán của đồng nghiệp, dù lớn hay nhỏ, dù gay gắt hay thân thiện, lúc nào cũng giúp cho bài báo trở nên hoàn hảo hơn.

Phần đầu, tôi đã nêu ra vài lý do tại sao cần phải công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế, ở đây tôi muốn nói thêm một lý do quan trọng hơn. Việc công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học của quốc gia đó. ở phương Tây, người ta thường đếm số lượng và số lần trích dẫn bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên tạp chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa học của nước ta chưa cao. Phần lớn các CTNC tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Đối với hoạt động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án, nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hơn.


Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn một câu nói của Khổng Tử: “Nếu dùng ngôn ngữ không đúng, thì những gì được phát biểu sẽ bị hiểu sai; nếu những gì phát biểu bị hiểu sai, thì những gì cần phải làm sẽ không thực hiện được; và những gì không thực hiện được, đạo đức và nghệ thuật sẽ trở nên tồi tệ hơn”. Và tôi cũng có thể thêm rằng, nước nhà sẽ thiệt thòi hơn.

http://sinhhoc.blogspot.com Theo TC Hoạt động khoa học
Posted by Unknown
Blog sinh học: Cây ngô – nghiên cứu và sản xuất


MỤC LỤC

Chương 1: NGUỒN GỐC, TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ GIÁ TRỊ 

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC 

Chương 3: CÁC GIAI ĐOẠN SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ YÊU CẦU NGOẠI CẢNH  

Chương 4: ĐA DẠNG DI TRUYỀN CÂY  NGÔ

Chương 5: DI TRUYỀN VÀ CHỌN TẠO GIỐNG NGÔ 

Chương 6: KỸ THUẬT TRỒNG NGÔ 
Posted by Unknown

Monday, January 7, 2013


Trong hàng vạn người yêu lan, có hàng ngàn người mê lan. Trong hàng ngàn người mê lan, có hàng trăm người say lan. Trong hàng trăm người say lan đó, không biết có ai dám chết vì lan không, nhưng đã có người lên diễn đàn phán một câu xanh rờn như thế này: “Mê lan hơn mê vợ!” Chết thật!
Mặc dù hoa lan được ví là loài hoa vương giả, nhưng thú chơi lan có thể nói là thú chơi bình dân, không phân biệt xiền ít hay xiền nhiều. Rất dễ dàng để tìm cho mình một giò lan để chăm sóc và ngắm nghía!
Những ai chơi lan mới chập chững bước vô “nghề chơi” (như tui đây) phải trang cho mình bị những kiến thức căn bản a bờ cờ về lan. Ví như cách phân loại nhận biết lan này lan kia, phân bố vùng địa lý của chúng, cách chăm sóc, tưới tắm, bón phân, phòng trị bệnh, ẩm độ, ánh sáng cho lan… Ôi thôi rồi, đủ cả!
Phức tạp là thế nên không ai một lúc biết hết tất cả. Từ từ mà học hỏi, đúc rút kinh nghiệm sau vài vụ đau thương. Thế là ổn!
Nói chung, cái thú này đòi hỏi phải kiên trì. Nếu bạn mê công nghệ và ví tiền rủng rỉnh thì mọi việc quá ư đơn giản. Chơi lan không phải vậy, có tiền tất nhiên sẽ mua được nhiều giò lan đẹp (hội chợ hoa thiếu gì), nhưng chắc chắn đó không phải là mục đích chính của người chơi lan. Có những niềm vui nho nhỏ khi giò lan mình chăm sóc mọc ra những chồi mới hay bắt đầu trổ hoa, rầu rĩ như mất sổ gạo khi thấy chúng héo úa, không còn sức sống (đa phần là do sự chăm sóc tưới tắm quá chu đáo của chủ nhân he he)
Nói gì thì nói, mê gì thì mê chứ mê lan hơn mê vợ là tui hổng có đồng ý! Hai phạm trù này khác hẳn nhau, mang tính chất bổ sung chứ không đối lập! (phải xem lại đoạn này). Hơn nữa, mục đích khi viết ra entry không đầu không đuôi này chẳng qua là “hợp thức hóa” việc tặng sách cho bà con. Có mấy cuốn sách nhỏ về lan tui upload lên đây, hy vọng đáp ứng phần nào nhu cầu tài liệu tham khảo cho các huynh đệ lỡ “xui xẻo” mê loài hoa này. Xin mời các bác download theo các link dưới.
1. Trồng Hoa Lan. Tác giả: Nguyễn Công Nghiệp. NXB Trẻ
2. Phong Lan Việt Nam. Tác giả: Trần Hợp. NXB Nông Nghiệp 1998
3. Cây Cỏ Việt Nam (tập 3, trang 761 – 968). Tác giả: Phạm Hoàng Hộ. NXB Trẻ 1999
Nguồn: THUANPHONG’s blog 
Posted by Unknown
Blog sinh học: “Cây cỏ Việt Nam” là một công trình đồ sộ của giáo sư Phạm Hoàng Hộ – bảo bối gối đầu giường của những người làm công tác nghiên cứu thực vật học. Sách do Nhà xuất bản Trẻ phát hành.
Bản PDF của cuốn sách này do một người bạn – blogger Nguyễn Thuận Phong - sưu tầm. Xin [tiếp tục] chia sẻ đến anh chị em sinh viên và những người yêu thích cỏ cây.
http://sinhhoc.blogspot.com - Blog sinh học
Thay lời tựa
  • Phạm Hoàng Hộ
Thựcvậtchúng Việt Nam có lẽ gồm vào khoảng 12.000 loài. Đó là chỉ kể các cây có mạch, chứ không kể các rong, rêu, nấm.
Nước ta có một trong những thựcvậtchúng phong phú nhất thế giới. Pháp chỉ có khoảng 4.800 loài, Âu Châu có khoảng 11.000 loài, Ấn Độ, theo Hooker có khoảng 12 – 14.000 loài. Với một diện tích to hơn nước ta đến 30 lần, Canada chỉ có khoảng 4.500 loài, kể cả loài du nhậpGần ta, chỉ có Malaysia và Indonesia nhập lại, rộng bằng 6 lần nước ta, mới có số loài cao hơn: số loài phỏngđịnh vào 25.000 (nhưng hiện chỉ biết vào 5.000).
Nguyên nhân của sự phong phú ấy phức tạp. Trước hết Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới thuận lợi cho sự sinh sôi nẩy nở của cây cỏ. Việt Nam không có sa mạc. Lại nữa, Việt Nam nằm trên khối Indosinias của vỏ trái đất bền vững từ mấy triệu năm nay, không chìm ngập dưới biển bao giờ. Rồi vào nguyên đại đệ tứ , Việt Nam không bị băng giá phủ xua đuổi các loài., có khi không trở lại được như ở nhiều nơi. Sau rốt, Việt Nam lại là đường giao lưu giữa hai chiều thực vật phong phú của miền nam Trung Quốc, của Malaysia, Indonesia, và trong quá khứ gần đây, Philippines còn được nối liền với ta. Nên, nếu ở rừng Amazon, trung bình ta gặp được 90 loài/ha, ở Đông Nam Á, ta đếm đến được 160 loài/ha.
Sự phong phú ấy là một diễm phúc cho dân tộc Việt Nam, Vì, như tôi đã viết (1968) “…Hiển hoa là ân nhân vô giá của loài Người: hiển hoa cho ta nguồn thức ăn căn bản hàng ngày; Hiển hoa cung cấp cho ta, nhất là người Việt Nam nơi sinh sống an khang. Biết bao cuộc tình duyên êm đẹp khởi đầu bằng một miếng Trầu, môt miếng Cau. Hồi xưa, mấy ai chúng ta đã không chào đời bằng một mảnh tre để cắt rún, rời nhau? Lúc đầy nguồn sống, lúc nhàn rỗi, lúc nhàn rỗi, chính Hiển hoa cung cấp nguồn sống cho loài người thức uống ngon lành để say sưa cùng vũ trụ. Lúc ốm đau, cũng chính cây cỏ giúp cho ta dược thảo diệu linh…”
Các điều ấy rất đúng hơn với chúng ta, người Việt Nam, mà ở rất nhiều nơi, dân còn sống một nền văn minh dựa trên thực vật.
Những ân nhân của chúng ta ấy đang bị hiểm họa biến mất, tuyệt chủng, vì rừng nước ta đã bị đẩy lùi đến dưới mức độ an toàn, đất màu mỡ đã bị xói mòn mất ở một diện tích lớn, và cảnh sa mạc đang bành trướng mau lẹ. Đã đến lúc theo tiếng nhạc của một bài ca, ta có thể hát: “Thần dân nghe chăng? Sơn hà nguy biến. Rừng dày nào còn. Xói mòn đang tiến…Đâu còn muôn cây làm êm ấm núi sông…”  Kho tàng thực vật ấy, chúng ta có phận sự phải bảo tồn. Sự bảo tồn và phục hồi thiên nhiên ở nước ta là rất cấp bách. Chúng ta có thể thực hiện, vì mỗi người của chúng ta dù lớn, dù nhỏ đều có thể góp phần vào sự bảo tồn ấy. Yêu nước không phải chỉ cầm súng chiến đấu, hiến thân vì tổ quốc mà thôi. Thời bình, người kinh doanh tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho nhân dân, cũng đáng phục, đáng ca tụng? Và chúng ta? Bằng những cử chỉ nhỏ hằng ngày, sự đóng góp của chúng ta quan trọng không kém: Không quăng bậy một tia lửa, một tàn thuốc, là ta đã góp phần tránh nạn cháy rừng. Không đốn bậy một cây, là ta đã bảo vệ thiên nhiên của ta. Trồng cây không những là phận sự của nhà nước, hay của các công ty lâm nghiệp. Chung quanh nhà chúng ta, chúng ta có thể tìm trông một cây lạ, đặc biệt, hiếm của vùng hay chỉ có ở Việt Nam. Nhân dân ta yêu cây cảnh, hoa kiểng, nhưng những ai nhàn rỗi cũng có thể trồng một cây lạ hoặc một cây nào đó vào khoảng đất trống, là một nghĩa cử, là một thú tiêu khiển không kém hay, đẹp.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
Thựcvậtchúng của ta với cả vạn cây cỏ như vậy nhưng mỗi loài đều có tên tuổi và nhiều đặc tính riêng của nó vô cùng lý thú. Dù bạn ở nông thôn hay thành thị, mỗi ngày khi bạn bước ra khỏi nhà, bạn đều sẽ gặp không chỉ cây này thì cỏ nọ, có khi nào bạn nghĩ rằng mình cần phải biết tên của chúng không? Rất cần đó bạn ạ, nếu ta biết mặt, biết tên của một cây, một cỏ, và rồi khi chúng ta đi đâu đó, nếu như gặp một người bạn thân quen, có lẽ sẽ đỡ lẻ loi và chuyến đi ấy sẽ có ý nghĩa hơn không? Cây cỏ, như trên đã nói, không phải là “cỏ cây vô loại” mà là những ân nhân nuôi dưỡng chúng ta, che chở, bảo vệ chúng ta, thậm chí còn chữa bệnh cho chúng ta nữa… Hy vọng rằng tập sách nhỏ này sẽ giúp cho các bạn trẻ nhận biết và làm quen nhiều hơn với những người bạn thiên nhiên hữu ích này.
——————————————————————————
CÂY CỎ VIỆT NAM (3 QUYỂN)
Nguồn: THUANPHONG’s và phanhoaivy's blog 

Posted by Unknown

Saturday, November 17, 2012

"Ra lệnh" cho trái cây chín vào thời điểm mà con người mong muốn có thể trở thành hiện thực sau khi các nhà khoa học phát hiện một gene đặc biệt.

Cây cối có khả năng quang hợp nhờ các lục lạp trong tế bào. Tốc độ quang hợp của lục lạp quyết định thời gian chín của trái cây. Khi trái chín, cây sản xuất các chất tạo màu khiến vỏ trái có màu sắc khác biệt so với khi chưa chín.

Trong một bài trên tạp chí Science, các nhà khoa học của Đại học Leicester tại Anh tuyên bố họ đã tìm ra cơ chế tác động tới tốc độ chín của quả. Họ phát hiện một gene điều khiển quá trình quang hợp trong lục lạp. Bằng cách gây đột biến gene này, nhóm nghiên cứu có thể thay đổi tốc độ phát triển của tế bào thực vật và điều khiển quá trình sản xuất sắc tố màu sáng trong trái.

Bằng cách biến đổi gene, các nhà khoa học Anh có thể điều khiển trái cây chín đúng vào thời điểm mà họ muốn.
Bằng cách biến đổi gene, các nhà khoa học Anh có thể
điều khiển trái cây chín đúng vào thời điểm mà họ muốn.

Giáo sư Douglas Kell, giám đốc điều hành Hội đồng Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Các ngành sinh vật Anh, cho biết, quá trình sinh trưởng của thực vật có thể xảy ra rất nhanh nhờ kỹ thuật biến đổi gene.
"Nông dân có thể thu hoạch trái cây và rau vài ngày sau khi trồng", ông khẳng định.

Nhóm nghiên cứu của Đại học Leicester đã đăng ký bản quyền đối với kỹ thuật mới của họ, đồng thời đang thử nghiệm nó trên những cây cà chua, ớt cảnh, cam, quýt. Họ khẳng định kỹ thuật mới sẽ giúp nông dân tăng hoặc giảm tốc độ chín của cây trồng để tránh những giai đoạn thời tiết bất thường. Chẳng hạn, họ có thể kích thích trái chín nhanh trước khi bão, lũ ập tới. Ngoài ra, nông dân có thể điều khiển để trái chín trước hoặc sau giai đoạn cao điểm của mùa vụ, nhờ đó họ sẽ thu được lợi nhuận cao hơn.

"Chúng tôi đang thử nghiệm kỹ thuật trên cà chua. Vì thế tôi nghĩ rằng trong vòng một năm chúng tôi sẽ biết kỹ thuật phát huy tác dụng đúng như lý thuyết hay không. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kỳ vọng của chúng tôi, kỹ thuật mới sẽ là một thành tựu mang tính đột phá trong nông nghiệp", giáo sư Paul Jarvis, trưởng nhóm nghiên cứu, phát biểu.
Theo VNE
Posted by Unknown

Thursday, October 18, 2012

Thói quen mặc áo ngực của phụ nữ và thói quen không gối đầu (gối đầu thấp) là những thói quen đang ảnh hưởng đến sức khoẻ của bạn từng ngày.

Các nhà nghiên cứu y khoa cho thấy các thói quen này có thể thúc đẩy bệnh tật. Tuy nhiên chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi các thói quen và hành vi để có một cuộc sống khoẻ mạnh.

Chúng ta có thể ngăn chặn bệnh uAlzheimer, ngăn ngừa bệnh ung thư vú và thúc đẩy sức khỏe tối ưu bằng cách thực hiện một số thay đổi (đơn giản) với thói quen hàng ngày. Phòng chống bệnh dễ dàng hơn bạn nghĩ - hãy học cách sống phù hợp với quy luật tự nhiên.

Một cảnh báo đối với tất cả các phụ nữ là việc mặc áo ngực sẽ làm tăng khả năng mắc bệnh ung thư vú.
Mặc dù điều này nghe có vẻ lạ nhưng các chuyên gia y tế đang bắt đầu quan tâm đến tính an toàn của một chiếc áo ngực. Sự thật là một chiếc áo ngực có thể làm giảm lưu thông mạch máu ở ngực, điều này có thể dẫn đến phù mô, u nang và sự tích luỹ các chất độc. Nếu các chất độc này không được hệ bạch huyết hoá giải, chúng sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của tế bào ung thư vú.

Thật thú vị, chỉ sau một vài tuần không mặc áo ngực, nhiều phụ nữ cho biết họ cảm thấy ít tức ngực, sưng và u nang hơn. Nếu vì một lí do nào đó việc mặc áo ngực là cần thiết (ví dụ như khi tập thể dục), thì hãy cởi nó ra ngay khi có thể. Ngoài ra, massage ngực là một cách tuyệt vời giúp lưu thông máu và giảm nguy cơ tích tụ các chất độc.

Thói quen ngủ không tốt có thể tạo quá nhiều áp lực lên não
Thói quen ngủ không tốt có thể tạo quá nhiều áp lực lên não

Chúng ta đều biết rằng các bệnh như chứng đau nửa đầu, đột quỵ giấc ngủ, ngừng thở, co giật và bệnh Alzheimer là những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Để cải thiện tuần hoàn não bạn nên kê cao đầu khi ngủ. Nằm ngủ phẳng toàn thân là một tư thế ngủ không khoa học dễ dẫn đến sự ngưng thở khi ngủ, SIDS (hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh) và đột quỵ.
Phạm Thị Bích Thu (Naturalnews)
Posted by Unknown

Tuesday, October 9, 2012

Dốc sức học một loại ngoại ngữ mới có thể làm tăng kích thước đáng kể của một số khu vực não bộ, theo nghiên cứu mới của các chuyên gia Thụy Điển.

Đó là kết luận rút ra sau cuộc nghiên cứu trên nhóm tân binh ở Học viện Phiên dịch các lực lượng quân đội Thụy Điển, những người học ngoại ngữ nhanh thần tốc, từ việc chẳng biết tí gì những ngôn ngữ như Ả Rập, Nga, đến mức sử dụng thành thạo chúng chỉ trong vòng 13 tháng.

Học ngoại ngữ được chứng minh có thể làm não tăng trưởng
Học ngoại ngữ được chứng minh có thể làm não tăng trưởng

Các chuyên gia của Đại học Lund đã so sánh nhóm trên với một nhóm sinh viên đại học cũng học chuyên sâu nhưng không phải về ngoại ngữ, và phát hiện một số phần cụ thể trên não của nhóm sinh viên ngoại ngữ đã thực sự phát triển.

Phần tăng về kích thước là hồi hải mã, một cấu trúc nằm sâu trong não có liên quan đến tình trạng học hỏi cũng như định hướng, và ba khu vực ở vỏ não.

“Chúng tôi ngạc nhiên khi thấy những phần khác biệt của não phát triển ở nhiều mức độ khác nhau dựa trên khả năng thể hiện của sinh viên cũng như nỗ lực mà họ bỏ ra để theo kịp khóa học”, website Science Daily dẫn lời chuyên gia Martensson.

Một số nghiên cứu trước đây cho thấy chứng mất trí nhớ Alzheimer thường xảy ra muộn hơn so với những người biết nhiều hơn một ngôn ngữ.

Cuộc nghiên cứu trên cũng chứng tỏ rằng việc học ngoại ngữ mới là phương pháp tốt giúp não duy trì được phong độ qua thời gian.
Theo Thanh Niên
Posted by Unknown
Một nhóm nghiên cứu của Trung Quốc và Nhật Bản vừa công bố một bản đồ hoàn chỉnh về các biến thể gene của cây lúa, nguồn cung cấp lương thực cho một nửa dân cư trên hành tinh.

Nghiên cứu cho thấy giống lúa chủ yếu hiện nay có nguồn gốc từ vùng châu thổ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc.

Nghiên cứu trên, được công bố trên tạp chí khoa học Nature ngày 3/10, là kết quả của quá trình phân tích tỉ mỉ mã di truyền ADN của hơn 1.000 giống lúa (bao gồm hai tiểu nhóm indica và japonica) và gần 500 giống lúa hoang (thuộc nhóm Oryza rufipogon), tổ tiên của các giống lúa đang trồng hiện nay.

Công bố bản đồ hoàn chỉnh biến thể gene của cây lúa
Theo các nghiên cứu, đại đa số cây lúa được trồng hiện nay thuộc giống Oryza sativa L., được gọi chung là “lúa châu Á". Giống này được phân thành hai tiểu nhóm là indica và japonica.

Lúa thuộc tiểu nhóm japonica có hạt ngắn và dính (tức lúa nếp), trong khi tiểu nhóm indica có hạt dài và không dính (tức lúa tẻ).

Một điểm được các nhà nghiên cứu trong nhóm trên cùng nhất trí là giống lúa được trồng hiện nay có nguồn gốc từ giống lúa hoang Oryza rufipogon, cách đây hàng nghìn năm.

Tuy nhiên, nguồn gốc và quá trình thuần hóa giống lúa này vẫn còn là chủ đề tranh luận.

Về nguồn gốc của tiểu nhóm Oryza sativa japonica, tức là giống lúa ra đời đầu tiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng giống lúa này được thuần hóa từ các cây lúa hoang ở miền Nam Trung Quốc, khu vực trung tâm đồng bằng sông Châu Giang, thuộc hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay.

Tiếp đó, giống lúa thuộc tiểu nhóm japonica được lai với các loài lúa hoang tại miền Nam châu Á và Đông Nam Á để tạo thành các loại lúa thuộc tiểu nhóm indica.

Hiện tại, trên thế giới có khoảng 155 triệu hécta trồng lúa, sản xuất ra 720 triệu tấn lúa/năm, trong 90% là ở châu Á.

Theo một số dự đoán, để bảo đảm an ninh lương thực đối với một phần quan trọng của cư dân toàn cầu, sản lượng lúa phải tăng gấp đôi vào khoảng năm 2030 và cần phải phát triển các giống lúa có sản lượng cao hơn.

Ngoài hai tiểu nhóm giống lúa lớn kể trên, tại châu Phi còn một giống lúa với số lượng ít, có tên khoa học là Oryza glaberrima, thường được gọi là “lúa châu Phi”.
Theo Vietnam+
Posted by Unknown

Monday, October 8, 2012


Sau thông tin về nghiên cứu một loại ngô biến đổi gene có thể khiến chuột ung thư, giới khoa học trên thế giới cho rằng, đó là kết quả có ít bằng chứng khoa học đáng tin.

Một nhóm khoa học người Pháp đứng đầu là nhà sinh học phân tử Gilles-Eric Seralini, Đại học Caen, ở Normandy chia 200 con chuột thành 10 nhóm, mỗi nhóm 20 con và cho chúng ăn thực đơn khác nhau là ngô NK603 (ngô biến đổi gene), ngô NK603 được phun thuốc diệt cỏ Roundup (sản phẩm của tập đoàn nông nghiệp Monsanto, Mỹ) trong quá trình trồng, nước có pha thuốc diệt cỏ Roundup và ngô không biến đổi gene (nhóm chứng).

Kết quả là, chuột nuôi bằng ngô biến đổi gene NK603 có đến 50-80% bị ung thư. Đây là lần đầu tiên một sản phẩm biến đổi gene chứng minh có ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe.

Thông tin trên sau khi được công bố đã gặp phải nhiều phản đối của nhà khoa học trên thế giới. Trang Discovery dẫn lời chuyên gia công nghệ sinh học Martina Newell-McGloughlin, Đại học California, Mỹ: “Có rất ít bằng chứng khoa học uy tín trong nghiên cứu".

Các nhà khoa học cho rằng, nghiên cứu ngô biến đổi gene của nhóm nhà khoa học Normany chưa xác thực.
Các nhà khoa học cho rằng, nghiên cứu ngô biến đổi
gene của nhóm nhà khoa học Normany chưa xác thực.

Theo giáo sư David Spiegelhalter, Đại học Cambridge, Anh, số lượng đưa ra nhóm kiểm chứng quá nhỏ, chỉ 10 con chuột đực và 10 chuột cái. "Tôi ngạc nhiên vì sao nghiên cứu đó được công bố. Tôi thấy phương pháp, số liệu thống kê và báo cáo kết quả đều dưới chuẩn mà tôi mong đợi trong một nghiên cứu khắt khe. Tôi có thể không chấp nhận những kết quả này, ngoại trừ nghiên cứu được làm lại một cách đúng đắn", ông David Spiegelhalter nói.

Trên BBC, giáo sư Anthony Trewavas, đại học Edinburgh chỉ ra rằng, thí nghiệm chỉ sử dụng 200 con chuột, số lượng mẫu chỉ có 10 con. Mẫu nghiên cứu còn quá ít để đưa ra kết luận chính xác. "Theo chuẩn nghiên cứu của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì số lượng mẫu cần có trong thí nghiệm là 50 con mỗi nhóm".
"Hơn nữa, về nguyên tắc, trong bất kỳ trường hợp so sánh nào, số lượng mẫu đối chứng cũng phải bằng với số lượng mẫu thử nghiệm. Tỷ lệ so sánh như vậy là khập khiễng".
Giáo sư Maurice Moloney - Giám đốc viện nghiên cứu Rothamsted nói rằng không nên lựa chọn loài chuột để nghiên cứu. Theo ông, loài chuột trắng Sprague-Dawley có vòng đời 2 năm, thường xuyên bị xuất hiện các khối u dạng này khi ăn quá nhiều và không được kiểm soát. Trên thực tế, 86% chuột đực và 72% chuột cái loại này thường xuyên bị ung thư khi sống đến năm thứ 2.

Một số nhà khoa học trên thế giới đặt ra câu hỏi, nếu ngô biến đổi gene gây ung thư thì tại sao tỷ lệ ung thư ở Mỹ lại không cao hơn so với châu Âu trong khi người dân châu Âu ăn ít thực phẩm biến đổi gene hơn Mỹ.

Năm 2009, Ban chuyên gia về sinh vật biến đối gene thuộc Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu kết luận rằng ngô NK603 “an toàn như ngô thông thường”. Trước đây, tạp chí Thực phẩm và Hóa chất cũng đã xuất bản kết quả nghiên cứu khẳng định “không tồn tại ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe của chuột ăn ngô chuyển gene” với thời gian nghiên cứu ngắn hơn - 90 ngày. Đây là quãng thời gian nghiên cứu tiêu chuẩn trên loài chuột.

Tuy nhiên cuộc tranh cãi về nguy cơ thực vật biến đổi gene gây ảnh hưởng đến sức khỏe người vẫn tiếp diễn chưa đến hồi kết.

Theo VNE
Posted by Unknown

Monday, October 1, 2012

Lần đầu tiên, giới chuyên gia có thể xác định được danh tính người chết nhờ vào mẫu gene tìm thấy trong ruột giòi sinh sôi trên tử thi.

Cảnh sát Mexico vừa phát hiện một thi thể cháy đen và không thể nhận dạng được bị vứt lại tại vùng nông thôn nước này. Phần cẳng và bàn chân biến mất. Không phát hiện thêm chứng cứ nào tại hiện trường ngoại trừ một chiếc nhẫn đeo trong buổi lễ tốt nghiệp trung học.

Xác chết bị hủy hoại đến nỗi giới điều tra không thể xác định được giới tính. Phần mô mềm còn sót lại để phân tích gene lại là một mẩu gan bị cháy đen, nên giới chuyên gia pháp y cũng đành bó tay khi lần theo dấu vết này.
Tuy nhiên, cuối cùng họ vẫn có thể tìm được vật liệu di truyền có thể sử dụng được ở một nơi bất thường, bên trong ruột của giòi bò lúc nhúc ở phần cổ và mặt nạn nhân.

Phát hiện công dụng mới của giòi
Phát hiện công dụng mới của giòi - (Ảnh: AFP)

“Đây là trường hợp đầu tiên phân tích mẫu ADN người từ trích xuất ruột giòi để xác định danh tính nạn nhân trong một vụ giết người”, theo nhóm chuyên gia đến từ Monterrey (Mexico) trình bày trong báo cáo trên chuyên san Journal of Forensic Sciences số tháng 9.

10 ngày trước khi thi thể được phát hiện, có một người đàn ông báo với cảnh sát rằng con gái mình đã bị bắt cóc. Ông nhận ra chiếc nhẫn, nhưng không thể xác định liệu thi thể cháy trụi kia có phải là đứa con gái xấu số của ông hay không.

Các nhà điều tra lấy mẫu ADN từ người cha và đem so sánh với dữ liệu di truyền tìm thấy trong ruột giòi. Kết quả cho thấy có sự tương đồng giữa các mẫu gene.

Với chứng cứ hiếm hoi trên, họ phát hiện nạn nhân là nữ giới, và khi tiến hành cuộc xét nghiệm chứng tỏ quan hệ nhân thân, tương đồng gene giữa 2 mẫu là 99,68%.

Giòi thường được sử dụng để dựng lại dòng thời gian của tội ác, do sự phát triển từ nhộng có thể cho thấy nạn nhân đã qua đời lâu hay mau. Tuy nhiên, trường hợp xét nghiệm mới ở Mexico cho thấy loài côn trùng này có thể được tận dụng cho mục đích khác trong quá trình điều tra.

Cuộc nghiên cứu trên được thực hiện và báo cáo bởi nhóm của chuyên gia Marta Ortega-Martínez thuộc Đại học Autónoma de Nuevo León (Mexico).
Theo Thanh Niên
Posted by Unknown

Saturday, September 8, 2012

Tổ chức môi trường Hòa bình xanh Đông Á - Greenpeace East Asia vừa cáo buộc, một nghiên cứu do Mỹ hậu thuẫn đã thử nghiệm gạo biến đổi gene Golden Rice (gạo hạt vàng) trên 24 trẻ em Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc bác bỏ cáo buộc này.

Theo cáo buộc, những đứa trẻ Trung Quốc ở trên có độ tuổi từ 6-8 tuổi, đang sinh sống ở thành phố Hành Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc đã được thử nghiệm ăn 60 gram gạo hạt vàng biến đổi gene hàng ngày, trong vòng 3 tuần.

Kết quả nghiên cứu này đã được công bố trên Tạp chí American Journal of Clinical Nutrition, trong đó, nhóm nghiên cứu cho rằng, số trẻ em ăn gạo hạt vàng biến đổi gene có tác dụng như uống vitamin A.

Theo Greenpeace East Asia, thử nghiệm trên nguy hiểm do chưa từng thử nghiệm trước ở động vật và đi ngược lại với quyết định của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc hủy bỏ dự án thử nghiệm gạo hạt vàng biến đổi gene do sai phạm về y tế và đạo đức trong năm 2008.

Gạo hạt vàng biến đổi gene đã được trồng và thử nghiệm trên trẻ em Trung Quốc dù đã bị cấm cách đây 4 năm?
Gạo hạt vàng biến đổi gene đã được trồng và thử nghiệm
trên trẻ em Trung Quốc dù đã bị cấm cách đây 4 năm?
Greenpeace East Asia đã kêu gọi chính phủ Trung Quốc tiếp tục giữ quyết định năm 2008 và mở cuộc điều tra đối với chương trình thử nghiệm gạo hạt vàng biến đổi gene, đồng thời phải hỗ trợ về mặt pháp lý và y tế đối với 24 trẻ em được cho là đã bị thử nghiệm.
Tuy nhiên, phía các quan chức nhà nước ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc đã bác bỏ cáo buộc trên của Greenpeace East Asia. Phát ngôn viên thành phố Hành Dương cho biết, chính phủ Trung Quốc đã thành lập nhóm điều tra dự án gạo hạt vàng biến đổi gene nhưng không có dự án này được triển khai ở Hồ Nam.

Thực tế, nghiên cứu đó là biến đổi carotene trong rau thành vitamin A trong cơ thể của trẻ em. Nghiên cứu này đã được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Trung Quốc (CDC) Trung Quốc ủy quyền cho chi nhánh Hồ Nam trong năm 2008, lựa chọn 68 học sinh tiểu học ở Hành Dương, Hồ Nam vào thí nghiệm, chứ không liên quan gì đến gạo biến đổi gene hoặc thực phẩm biến đổi gene khác được thử nghiệm trên trẻ em.

Các quan chức CDC Hồ Nam cũng cho biết thêm, khi thí nghiệm được hoàn tất, các địa phương đã mua kết quả nghiên cứu. Tất cả kết quả nghiên cứu cũng đã được trình lên CDC Trung Quốc ngay sau khi kết thúc. Nghiên cứu này cũng không có sự tham gia hỗ trợ nào của Mỹ.

Được biết, chương trình gạo hạt vàng biến đổi gene do một giáo sư tại Đại học Tufts ở Massachussetts khởi xướng. Gạo hạt vàng GM được cấy ghép di truyền sản sinh ra nhiều chất beta-carotene, một chất quan trọng tạo thành vitamin A. Nghiên cứu giống gạo này có mục đích tạo ra một loại thực phẩm khắc phục tình trạng thiếu vitamin A, một trong những nguyên nhân giết chết mỗi năm khoảng 670 nghìn trẻ em dưới 5 tuổi.
Theo Báo Đất Việt
Posted by Unknown

Sunday, September 2, 2012

Các nhà khoa học đã thành công trong việc tạo ra tinh trùng giai đoạn đầu từ tế bào da người. Kỹ thuật này mở ra triển vọng giúp hàng ngàn nam giới vô sinh, kể cả những người bị ung thư từ thời thơ ấu, thực hiện ước nguyện được làm cha.


Theo trang Daily Mail, các nhà khoa học Mỹ đã sử dụng hỗn hợp các chất hóa học để vặn ngược “đồng hồ sinh học” trong các tế bào da, biến chúng thành những tế bào có khả năng luôn biến sắc như tế bào gốc trong thời kỳ đầu của sự phát triển.

Tinh trùng nhân tạo, sinh ra từ tế bào da, mở ra triển vọng giúp hàng ngàn nam giới vô sinh thỏa ước nguyện được làm cha.
Tinh trùng nhân tạo, sinh ra từ tế bào da, mở ra triển vọng giúp
hàng ngàn nam giới vô sinh thỏa ước nguyện được làm cha.

Nhóm nghiên cứu sau đó sử dụng kết hợp các chất dinh dưỡng để “dụ” chúng phát triển thành những tế bào hình tròn, tiền sát gần với việc trở thành tinh trùng trưởng thành và dường như bình thường về mặt di truyền học.
Tiến sĩ James Easley và các cộng sự đến từ Trường Y, Đại học Pittsburgh (Mỹ) tin rằng, họ đã vượt qua được phần khó khăn nhất trong quá trình phát triển tinh trùng. Điều này có nghĩa là, việc nuôi các tế bào hình tròn sang giai đoạn tiếp theo - mọc đuôi để có thể thụ tinh cho trứng - tương đối dễ dàng.
Giới chuyên môn nhận định, kỹ thuật “sinh tinh từ da” như trên vẫn còn phải chờ nhiều năm nữa mới có thể được sử dụng trong các cơ sở y tế. Tại Anh, điều này ít nhất là vì có luật quy định cấm sử dụng tinh trùng sản sinh trong phòng thí nghiệm.
Một trở ngại nữa là, nghiên cứu của nhóm Easley cũng vấp phải vô số phản đối xuất phát từ những lo ngại về khía cạnh đạo đức. Những người chỉ trích cho rằng, việc can thiệp vào các cấu trúc tạo nên sự sống là sai lầm, đồng thời cảnh báo viễn cảnh ảm đạm về những đứa trẻ sẽ ra đời hoàn toàn bằng biện pháp nhân tạo.
Tuy nhiên, về ngắn hạn, công trình nghiên cứu mang tính đột phá trên có thể dẫn tới sự ra đời của các loại thuốc chữa vô sinh mới.
Theo Vietnamnet
Posted by Unknown

Thursday, August 23, 2012

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện một căn bệnh mới, bí ẩn khiến hàng chục người ở châu Á và một số ở Mỹ có các triệu chứng tương tự như mắc “căn bệnh thế kỷ” AIDS dù họ không nhiễm virus HIV.

Hệ miễn dịch của các bệnh nhân mắc căn bệnh lạ sẽ bị hủy hoại, khiến họ không thể chống đỡ các mầm bệnh như những người khỏe mạnh. Giới khoa học vẫn chưa rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng căn bệnh dường như không dễ lây lan qua tiếp xúc.

Theo tiến sĩ Sarah Browne đến từ Viện Dị ứng và các bệnh truyền nhiễm quốc gia Mỹ, đây là một dạng suy giảm miễn dịch mắc phải mới, không di truyền và chỉ xuất hiện ở người trưởng thành. Căn bệnh này cũng không lan truyền qua virus như bệnh AIDS.

Bà Browne đã cùng các cộng sự tiến hành nghiên cứu ở Thái Lan và Đài Loan, những nơi hầu hết các ca nhiễm bệnh lạ được phát hiện kể từ năm 2004. Báo cáo nghiên cứu của họ vừa được đăng tải trong số ra ngày hôm (23/8) của tạp chí New England Journal of Medicine.

Tiến sĩ Sarah K. Browne (phải) đang trò chuyện với một bệnh nhân mắc căn bệnh lạ giống AIDS ngày 22/8.
Tiến sĩ Sarah K. Browne (phải) đang trò chuyện với một
bệnh nhân mắc căn bệnh lạ giống AIDS ngày 22/8.

Hãng thông tấn AP dẫn lời tiến sĩ Dennis Maki - một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Wisconsin (Mỹ) cho biết, ông đã theo dõi ít nhất 3 bệnh nhân mắc bệnh lạ trong suốt 10 năm qua. Ông nhận định, căn bệnh có thể bắt nguồn từ một dạng nhiễm trùng nào đó, mặc dù bản thân căn bệnh có vẻ không lây từ người sang người.
Về cơ chế phát bệnh, nếu ở bệnh AIDS, virus HIV phá hủy các tế bào T - những “chiến binh”chủ chốt của hệ miễn dịch giúp chống các mầm bệnh, thì căn bệnh mới không hề tác động tới những tế bào này nhưng gây ra một dạng tổn hại khác. Nghiên cứu của nhóm Browne đối với hơn 200 người ở Thái Lan và Đài Loan phát hiện, cơ thể của hầu hết những người mắc bệnh lạ tiết ra các chất gọi là “kháng thể tự động”, ngăn chặn interferon-gamma - một tín hiệu hóa học giúp cơ thể loại bỏ các nhiễm trùng.

Việc ngăn chặn tín hiệu cảnh báo khiến những người mắc bệnh lạ giống như các bệnh nhân AIDS, dễ bị các virus, nhiễm trùng nấm và ký sinh trùng, đặc biệt là vi khuẩn tấn công, dẫn đến tử vong.

Hiện tại, đối với các bệnh nhân, việc điều trị bằng thuốc kháng sinh không phải lúc nào cũng phát huy tác dụng. Vì vậy, các bác sĩ đã thử nhiều biện pháp khác nhau, kể cả dùng một loại thuốc chống ung thư giúp ức chế việc sản sinh các kháng thể. Căn bệnh này không bộc phát mạnh ở một số bệnh nhân một khi các nhiễm trùng được chế ngự. Tuy nhiên, hệ miễn dịch trục trặc nhiều khả năng trở thành một tình trạng mãn tính.

Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện, tính trung bình, bệnh lạ tấn công các nạn nhân khi họ khoảng 50 tuổi nhưng không xuất hiện ở những thành viên khác trong gia đình họ. Điều này đã bác bỏ khả năng một gene đơn lẻ là nguyên nhân gây bệnh. Chuyên gia Browne nói, một số người mắc bệnh lạ đã chết vì quá nhiều nhiễm trùng, kể cả những người châu Á hiện đang sinh sống ở Mỹ.

Tuy nhiên, trước thực tế rằng, gần như hầu hết các bệnh nhân cho tới thời điểm này là người châu Á hoặc sinh ra ở châu Á và cư trú ở nơi khác, nhóm nghiên cứu kết luận các yếu tố về gene hoặc môi trường nào đó có thể dẫn đến việc khởi phát bệnh.
Theo Vietnamnet
Posted by Unknown

Thursday, August 9, 2012

Các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Y khoa thuộc Trường đại học Loyola (Mỹ) tin rằng uống trà đá làm tăng nguy cơ bị sạn thận, theo Healthday.

Theo các nhà nghiên cứu, loại thức uống phổ biến này chứa hàm lượng cao oxalate - một loại hóa chất có dạng tinh thể được tạo ra từ nước khoáng và muối được tìm thấy trong nước tiểu.

Mặc dù các tinh thể này thường không gây hại nhưng các nhà nghiên cứu cảnh báo chúng có thể phát triển đủ lớn để “cư trú” trong ống dẫn nước tiểu từ thận tới bàng quang.

Trà đá nếu lạm dụng sẽ gây ra sạn thận
Trà đá nếu lạm dụng sẽ gây ra sạn thận

Bác sĩ John Milner, giáo sư khoa Tiết niệu tại Trường Y Stritch thuộc Trường đại học Loyola cho biết: “Trà đá có thể uống được nhưng không nên lạm dụng”.

Theo bác sĩ Milner, nhiều người chọn uống trà đá vì nó chứa ít calorie, và ngon hơn nước. Tuy nhiên, thói quen này sẽ gây nguy hại cho sức khỏe con người.

Theo các nhà nghiên cứu, nam giới có rủi ro phát triển bệnh sạn thận gấp 4 lần so với nữ giới, đặc biệt ở độ tuổi 40.
Để giảm rủi ro này, các nhà nghiên cứu khuyên chúng ta nên chọn nước lọc hoặc nước chanh tươi thay vì chọn trà đá. Nước chanh chứa hàm lượng axit citric cao giúp ngăn chặn sự phát triển của sạn thận.

Họ cũng hướng dẫn cách giảm rủi ro bị sạn thận bằng cách tránh thực phẩm chứa hàm lượng oxalate cao (thường thấy trong rau bina, chocolate, đại hoàng, quả hạch), giảm hấp thu muối, ăn ít thịt, bổ sung đủ canxi - một cách để giảm lượng oxalate hấp thụ vào cơ thể.

Các nhà nghiên cứu khuyến cáo những ai thường xuyên uống trà đá nên kiểm tra lượng oxalate trong cơ thể.
Theo Thanh Niên
Posted by Unknown

Sunday, August 5, 2012

Tình hình côn trùng biến đổi gene nhằm thích nghi với cây trồng biến đổi gene trên đồng ruộng diễn biến phức tạp hơn trong phòng thí nghiệm, một nghiên cứu mới vừa cho biết.


Sâu đục quả bông đang thích nghi với bông biến đổi gene.
Sâu đục quả bông đang thích nghi với bông biến đổi gene. (Nguồn: Leedsblogs)
Những kiểm tra trong phòng thí nghiệm được thực hiện để tìm ra cách khiến côn trùng hại mùa màng không thể kháng lại cây trồng biến đổi gene. Tuy nhiên, những thí nghiệm đó không lường hết được tình hình diễn biến ngoài đồng ruộng.

Nhà khoa học Haonan Zhang ở ĐH Nông nghiệp Nam Kinh (Trung Quốc) và các đồng nghiệp đã xem xét các biến thể gene trong sâu đục quả bông mà họ bắt từ ruộng trồng bông biến đổi gene ở miền bắc Trung Quốc. Họ phát hiện ra rằng sâu đục bông có số lượng biến thể gen phong phú, giúp chúng sống sót trong môi trường cây trồng biến đổi gen.

Ngoài những biến thể gene lặn được quan sát trong phòng thí nghiệm trước đây, các nhà khoa học còn phát hiện nhiều biến thể gene trội, có khả năng chống lại các độc tố do bông biến đổi gene sinh ra để tiêu diệt ấu trùng sâu hại.

Điều này nghĩa là chỉ một bản sao đơn của gene đột biến cũng đủ để sâu bệnh truyền lại đặc tính kháng cây biến đổi gen cho thế hệ sau.

Ngoài ra, biện pháp trồng cây bình thường quanh các cây biến đổi gene - để cho côn trùng không biến đổi gene phát triển và kết hợp với côn trùng biến đổi gene rồi từ đó làm giảm số lượng côn trùng biến đổi gene - không hiệu quả như mong đợi.

Theo Bruce Tabashnik, trưởng khoa côn trùng học ở ĐH Arizona và là đồng tác giả nghiên cứu, ngoài những đột biến gene đã được biết tới, nhóm nghiên cứu đã tìm ra “rất nhiều đột biến gene. Hầu hết những đột biến gen đó đều ở trong cùng một gen, nhưng có một đột biến gene xuất phát từ một gen hoàn toàn khác”.

Theo Đất Việt
Posted by Unknown

Monday, July 30, 2012

Trong thế giới côn trùng, tốt nhất là không nên gây hấn với những con mối già vì khi bị chọc giận, chúng có thể trở thành những kẻ khủng bố đánh bom tự sát, theo một nghiên cứu mới.


Nghiên cứu vừa công bố trên số mới nhất của tạp chí Science dường như cho thấy, tự nhiên đã đền bù cho những sinh vật già yếu khả năng đánh trả, mặc dù chúng không còn sống để kể về chiến công hiển hách của mình sau đó.

Một con mối chiến binh (cơ thể to lớn) bên cạnh các mối thợ. Phần màu xanh dương ở nơi tiếp giáp giữa ngực và bụng của một số mối thợ là nơi chứa chất độc có thể phát nổ như bom.
Một con mối chiến binh (cơ thể to lớn) bên cạnh các mối thợ. Phần màu xanh dương ở nơi tiếp giáp giữa ngực và bụng của một số mối thợ là nơi chứa chất độc có thể phát nổ như bom.
Các con mối rốt cuộc cũng có điểm chung với các điệp viên trong thế giới loài người. Trong các bộ phim tình báo ly kỳ, thường khi các mật vụ bị bắt giữ, cuối cùng họ vẫn “thắng” nhờ một viên thuốc độc xyanua giấu trong miệng. Một khi nhai viên thuốc độc, người điệp viên sẽ chết, xóa sạch mọi cơ hội tra tấn và moi tin mật của kẻ thù. Điều này thực tế đã xảy ra trong Thế chiến thứ hai.
Các con mối cũng có hành động tương tự, nhưng thậm chí còn đẩy nó tới một bước xa hơn khi trừ khử không chỉ bản thân mà còn cả những kẻ khác xung quanh chúng.

Jan Šobotnik - một chuyên gia đến từ Viện Khoa học Cộng hòa Séc và các cộng sự đã nghiên cứu về loài mối Neocapritermes taracua vốn xuất hiện chủ yếu ở Trung và Nam Mỹ. Họ phát hiện, rất nhiều con mối thợ có các điểm màu xanh dương nằm tiếp giáp giữa ngực và bụng.

Kích cỡ của những điểm màu xanh này rất khác nhau và thậm chí một số mối thợ không có chúng. Các nhà nghiên cứu nhận thấy, những điểm màu tươi tắn này hóa ra là nơi chứa chất cực độc, bao gồm các tinh thể protein chứa đồng được xếp thành từng cặp. Các tinh thể này sẽ được kích nổ khi chúng tiếp xúc với nước bọt của mối.

Ảnh phóng to chất nổ màu xanh trong "ba lô" của mối thợ.
Ảnh phóng to chất nổ màu xanh trong "ba lô" của mối thợ. (Ảnh: Discovery)

Khi một con mối hiếu chiến phạm một sai lầm không thể vãn hồi là cắn vào một trong những con mối mang chất độc, thì “đùng” - chất độc sẽ phun ra như bom nổ, giết chết “khổ chủ”, kẻ tấn công và có thể cả những kẻ khác ở gần kề đó.

Trang Discovery dẫn lời các nhà nghiên cứu nhận định: “Vì mối thợ đảm nhiệm hàng loạt các nhiệm vụ khác nhau, nên khả năng sẵn sàng phòng vệ bằng cách tự sát như vậy dự kiến sẽ tăng lên khi khả năng thực hiện các nhiệm vụ khác của chúng giảm xuống”.


Nhận định của các nhà nghiên cứu hóa ra lại đúng. Họ phát hiện, khi mối thợ già đi và phần miệng của chúng “cùn” hơn, trọng lượng các tinh thể trong “ba lô xanh” trên lưng chúng lại tăng lên. Mặc dù khả năng ăn mòn của mối già giảm xuống nhưng những con côn trùng này đã trang bị cho mình vũ khí đánh bom tự sát trong cuộc chạm trán với kẻ thù.
Theo Vietnamnet
Posted by Unknown

Monday, July 23, 2012

Lần đầu tiên trong lịch sử y khoa, giới khoa học đã giải mã được toàn bộ chuỗi gene của tế bào tinh trùng người.
Công trình nghiên cứu của Đại học Stanford (Mỹ), được đăng trên chuyên san Cell, có thể giúp các nhà nghiên cứu hiểu được sự pha trộn về gene để đảm bảo các hậu duệ mang bộ gene hỗn hợp từ cả cha lẫn mẹ.

Việc phân tích được bộ gene tinh trùng đóng vai trò quan trọng cho các nghiên cứu sau này
Việc phân tích được bộ gene tinh trùng đóng vai trò quan
trọng cho các nghiên cứu sau này - (Ảnh: Shutterstock)
Trong cuộc nghiên cứu, nhà kỹ sư sinh học Stephen Quake và đồng sự đã xâu chuỗi được toàn bộ 91 tế bào gene của một đối tượng 40 tuổi, có mẫu tinh trùng khỏe mạnh và sinh con bình thường.
Các nhà nghiên cứu phát hiện một mức độ biến thiên đáng kinh ngạc giữa các tế bào. Chẳng hạn, hai trong số các tế bào tinh trùng mất hẳn toàn bộ nhiễm sắc thể.
Giao tử, tế bào trứng và tế bào tinh trùng, giữ phân nửa số lượng ADN so với các tế bào khác trong cơ thể. Tế bào người chứa 23 cặp nhiễm sắc thể, trong khi tế bào trứng và tinh trùng chỉ “ngậm” 23 nhiễm sắc thể đơn, nhằm bảo đảm sự kết hợp giữa cha và mẹ không bao giờ quá 23 cặp ở con.
Trước nghiên cứu của Mỹ, giới khoa học bị giới hạn bởi việc nghiên cứu gene trong các nhóm lớn đối tượng và buộc phải ước tính số lượng các cặp tổ hợp xuất hiện trong giao tử.
Tuy nhiên, trong báo cáo mới nhất, các chuyên gia có thể so sánh tế bào tinh trùng của người hiến với các tế bào còn lại trong cơ thể.
Việc hiểu được bộ gene tế bào tinh trùng có thể mang lại những ứng dụng trong nghiên cứu ung thư, điều trị vô sinh và các rối loạn khác, theo chuyên gia Quake.
Theo Thanh Niên
Posted by Unknown

Wednesday, July 18, 2012

Một loại “bom thông minh” có thể cùng lúc tấn công các tế bào ung thư vừa tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể.


Theo DailyMail, loại bom này vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công trên những con chuột bị ung thư da melanoma đã bị di căn tới phổi. Trong cuộc thử nghiệm, những tinh cầu rỗng tí hon bị mắc kẹt bên trong các mạch máu của khối u sẽ giải phóng một loại thuốc chống ung thư cực mạnh.

Các tinh cầu NLGs đủ nhỏ để theo máu phân phối đi khắp cơ thể, nhưng lại đủ lớn để kẹt lại trong các mạch máu của khối u ung thư và giải phóng ra thuốc kháng ung thư cực mạnh.
Các tinh cầu NLGs đủ nhỏ để theo máu phân phối đi khắp cơ
thể, nhưng lại đủ lớn để kẹt lại trong các mạch máu của khối u
ung thư và giải phóng ra thuốc kháng ung thư cực mạnh.

Đồng thời, những tinh cầu có tên khoa học là nanolipogels s (NLGs) này còn tiết ra một loại protein đồng minh với cơ chế tự vệ của cơ thể bệnh nhân.

Theo các nhà nghiên cứu, công nghệ mới này đã khắc phục được một vấn đề lớn trong điều trị ung thư từ trước tới nay, nếu sử dụng các liệu pháp thông thường. Các khối u ác tính thường tiết ra những hóa chất gây nhiễu loạn hệ miễn dịch cơ thể, khiến cho cơ thể bị mất phương hướng và không biết phải “phòng thủ” từ đâu. Thế nhưng những nỗ lực để vừa trung hóa hóa chất ác tính của khối u, vừa củng cố tính đề kháng của bệnh nhân rất hiếm khi đạt được kết quả.

Theo Tạp chí Nature Materials, NLGs đã thành công trong việc kết hợp hai loại phân tử hoàn toàn khác nhau. Một loại được thiết kế để vượt qua vũ khí tự vệ của tế bào ung thư là TGF-beta, chính là thủ phạm gây “mù mắt” hệ miễn dịch.

Loại phân tử còn lại sẽ kích thích và ra tín hiệu chỉ dẫn cho các hoạt động miễn dịch, Tiến sĩ Stephen Wrzesinski thuộc Đại học Dược Yale (Mỹ) cho biết.
Sở dĩ nhóm nghiên cứu lựa chọn bệnh ung thư da melanoma là vì đây là loại bệnh ung thư điển hình của miễn dịch trị liệu. Trước đây, các phương pháp trị liệu truyền thống đều gặp khó khăn trong việc vừa kiểm soát các độc chất do khối u tiết ra, lại vừa phân phối kháng thể đi khắp cơ thể.

Hệ thống NLGs mới đủ nhỏ để có thể được phân phối khắp cơ thể thông qua đường máu, nhưng lại đủ lớn để bị kẹt lại trong những mạch máu của khối u ung thư. Một khi bị mắc kẹt, chúng sẽ phân hủy để giải phóng thuốc chữa bên trong.
Theo Vietnamnet, Dailymail
Posted by Unknown

Monday, July 16, 2012

Với giá lên tới hàng trăm triệu đồng cho mỗi kg, tổ chim yến được xem là một trong số những loại thực phẩm đắt nhất trên hành tinh mà nhiều người thường gọi đùa là“vàng trắng”.


Làm từ chính nước bọt của một loài chim yến nhỏ chuyên sống trong các hang động ở châu Á có tên swiftlet, tổ yến được xem là thức ăn rất có lợi cho sức khỏe với giá trị dinh dưỡng cao, thậm chí còn là thành phần không thể thiếu trong 1 số loại mỹ phẩm làm đẹp, theo sách Y học cổ truyền Trung Quốc. Ngoài ra, đây còn là vị thuốc hữu hiệu giúp chống lão hóa, ngăn ngừa ung thư, nâng cao ham muốn tình dục...

Tổ yến có giá lên tới hàng trăm triệu đồng cho mỗi kg.
Tổ yến có giá lên tới hàng trăm triệu đồng cho mỗi kg.

Tuy nhiên, trong một bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Thực phẩm Quốc tế mới đây, 2 chuyên gia Fucui Ma và Daicheng Liu đến từ Đại học Sơn Đông (Trung Quốc) nhận định khoa học hiện đại không thể tìm ra và giải thích được khả năng chữa bệnh tuyệt vời của món súp yến.“Những ảnh hưởng lên cơ thể và giá trị chữa bệnh thực sự của nó vẫn còn là câu hỏi đối với y học”, họ nói.

Yến swiftlet sống trong các hang động đá vôi quanh khu vực Ấn Độ Dương, Nam Á, Đông Nam Á, phía bắc Australia và những hòn đảo Thái Bình Dương. Con đực làm nhiệm vụ xây tổ trên các vách đá thẳng đứng. Cho nên, việc thu hoạch chúng là quá trình rất nguy hiểm đòi hỏi sự kiên trì, tỉ mẩn pha chút liều lĩnh.

Protein với các axit amin thiết yếu là thành phần chủ yếu được tìm thấy trong tổ yến. Bên cạnh đó, nó cũng chứa 6 loại hormone (bao gồm cả testosterone và estradiol), hợp chất carbohydrate, lượng nhỏ lipid. Không ít nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, tổ yến còn chứa nhiều chất có thể kích thích quá trình phân chia tế bào, thúc đẩy sự tăng trưởng và tái tạo mô, hạn chế bệnh nhiễm trùng như cúm. Mặc dù vậy, không phải cơ thể ai cũng phản ứng tốt với các thành phần đó. Trong nhiều trường hợp, đây là nguyên nhân gây ra sốc phản vệ, một loại phản ứng dị ứng nghiêm trọng đe dọa tính mạng người sử dụng.

Cho đến nay, vẫn còn quá ít nghiên cứu khoa học đi sâu tìm hiểu chức năng sinh học của nó mà hầu hết vẫn chỉ dựa trên nguồn thông tin từ những bài thuốc cổ truyền Trung Hoa có từ hàng trăm năm trước.
Tham khảo: Livescience
Theo Đất Việt, Livescience
Posted by Unknown

Thursday, July 12, 2012

Qua việc đọc gene người có thể tìm ra các gene tốt để cải tạo giống nòi, đồng thời giúp phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh dễ mắc phải của người được đọc gene.


Bộ KH&CN vừa làm việc với Viện KH&CN về Dự án khả thi giải mã trình tự và phân tích bộ gene người Việt Nam.


PGS.TS Nông Văn Hải, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ Sinh học cho biết: Đến nay, các nhà khoa học, chuyên gia nghiên cứu về gene thuộc Viện Công nghệ Sinh học đã giải mã được 16.000 gene ty thể của 9 cá thể thuộc 3 dân tộc Kinh, Tày, Mường và tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu ban đầu về hệ trình tự gene người Việt Nam.

Giải mã hệ gene không chỉ giúp phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh mà còn tìm kiếm được các gene tốt nhằm cải tạo giống nòi.
PGS.TS Nông Văn Hải cũng cho biết, kết quả nghiên cứu từ các dự án, chương trình cho thấy, các chủng tộc, các cá thể người giống nhau đến 99,9% và chỉ khác nhau về một tỷ lệ rất nhỏ (0,1%) về cấu trúc hệ gene.

Tuy nhiên, phần khác biệt rất nhỏ này lại có ý nghĩa quyết định đối với đặc điểm nhân chủng học, sức khoẻ giống nòi của cả một dân tộc; là yếu tố di truyền liên quan đến sức khoẻ của mỗi cá thể.
"Việc giải mã, so sánh toàn bộ hệ gene biểu hiện (exome) của một số người mắc các bệnh như bệnh di truyền, bệnh ung thư, tiểu đường, tim mạch... ở Việt Nam giúp phát hiện các chỉ thị phân tử cho chẩn đoán và điều trị bệnh.

Bên cạnh đó, giải mã hệ gene của các cá thể có thể trạng tốt, tuổi thọ cao (trên 100 tuổi), các tài năng đặc biệt về thể thao, toán học, âm nhạc, khoa học, quản lý... sẽ tìm kiếm được các gene có liên quan nhằm cải tạo giống nòi"
, PGS.TS Nông Văn Hải cho biết.

Giải mã gene giúp tìm kiếm chọn lọc các gene tốt nhằm cải tạo giống nòi.
Giải mã gene giúp tìm kiếm chọn lọc các gene tốt nhằm cải tạo giống nòi.

Chưa thể kết luận đặc điểm chung của gene người Việt


PGS.TS Trương Nam Hải, Viện trưởng Viện Công nghệ Sinh học cho hay, trong nghiên cứu sinh học, nhiều khi bộ gene không khác nhau nhiều nhưng sự thể hiện mạnh, yếu ở mặt nào thì lại do môi trường sống.

Ví dụ, với 1.000 gene thì cả 1.000 gene không phải lúc nào cũng biểu hiện hết ra mà có lúc chỉ có 150 gene, có lúc chỉ thể hiện 100 gene... Số lượng gene thể hiện lại phụ thuộc vào môi trường và việc các gene đó phối hợp với nhau như thế nào.
Việc chỉ thể hiện ở một trạng thái nhất định trong gene, biểu hiện sẽ khác với trạng thái mà có 150 gene thể hiện. Cái khác đó lại do điều kiện quyết định. Điều kiện sẽ quyết định gene gì biểu hiện tại thời điểm đó.

Ví dụ, một người ở Việt Nam làm một công việc nào đó ổn định trong nước nhưng khi ra nước ngoài trong một điều kiện sống khác, luật khác... thì người đó sẽ có thể hiện mới phù hợp với điều kiện bên ngoài. Môi trường bên ngoài như thế nào để các gene bên trong thể hiện, là hai quan hệ mật thiết.

Vì thế, đặc điểm của người phương Đông hay phương Tây chỉ là sự biểu hiện các gene khác nhau chứ không phải là sự khác nhau về gene.
Hiện Viện Công nghệ Sinh học đã nghiên cứu xong bộ gene ty thể của 54 chủng tộc người Việt Nam. Đó là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về bộ gene người Việt.

Tuy nhiên, PGS.TS Trương Nam Hải cũng cho biết, nghiên cứu trong nước về gene người Việt chưa nhiều và chưa có hệ thống nên thời điểm này chưa thể nói được đặc điểm chung của gene người Việt Nam.

Trên thế giới, họ phải nghiên cứu tổng thể trước về bộ gene rồi mới đưa ra được những đặc điểm chung. Sau khi nghiên cứu giải mã gene người xong thì người ta phát hiện có một số thay đổi về mặt di truyền, nó cũng phụ thuộc vào từng chủng tộc người. Những sự khác nhau đó liên quan đến một số bệnh, mà ở chủng tộc người này bị mắc nhiều hơn ở chủng tộc người khác.
"Để hiểu được đặc điểm di truyền bộ gene người Việt thì mục tiêu đưa ra có tính định hướng đến 2020, nếu được đầu tư thoả đáng và làm gấp rút thì khoảng 4,5 năm nữa sẽ có câu trả lời. Tổng số tiền cho trang thiết bị là khoảng 20 - 30 triệu USD; sau đó là đầu tư cho trang thiết bị hoá chất, vật tư, con người", PGS.TS Trương Nam Hải cho biết.
Theo Bee
Posted by Unknown