Gia sư tiếng anh - Tin học

Gia sư tiếng anh - Tin học

Dạy tin học ngoại ngữ mọi trình độ, đặc biệt dạy cấp tốc cho người đi làm, xuất cảnh, luyện thi chứng chỉ quốc gia A,B,C…

Gia sư tiếng anh - Tin học
Gia sư theo lớp

Gia sư theo lớp

Trung tâm gia sư Bình Minh tại tphcm nhận dạy tại nhà các lớp từ 1-12

Gia sư theo lớp
Gia sư theo môn

Gia sư theo môn

Toán – Lý – Hóa – Sinh – Văn – Sử – Địa – Ngoại Ngữ (Anh Hoa Pháp Nhật) – Tin Học – Nhạc- Họa …

Gia sư theo môn
Gia sư theo quận

Gia sư theo quận

Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Quận Gò Vấp,Tân Bình,Tân Phú,Bình Thạnh,Phú Nhuận,Thủ Đức, Bình Tân

Gia sư theo quận
Showing posts with label Công-nghệ-mới. Show all posts
Showing posts with label Công-nghệ-mới. Show all posts

Monday, July 29, 2013

Các nhà khoa học vừa thành công trong việc cấy ký ức giả vào não của loài chuột, khiến chúng tin vào việc trải qua những sự việc chưa từng xảy ra.


Nhóm nghiên cứu đến từ Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) đã chứng minh, họ có thể biến khoa học viễn tưởng thành sự thật, ít nhất ở chuột. Công trình của họ gợi nhắc đến cốt truyện của bộ phim giả tưởng "Inception" (phụ đề phim tại Việt Nam là "Đánh cắp giấc mơ") của Hollywood năm 2010, trong đó, nhân vật "gián điệp thần kinh", do tài tử Leonardo DiCaprio thủ vai, được thuê để cấy ghép suy nghĩ vào tâm trí của ai đó.

Trong thực tế, việc tạo ra một ký ức giả còn được gọi là quá trình "gieo mầm ý tưởng vào tiềm thức". Các nhà khoa học MIT đã bắt đầu thử nghiệm quá trình này ở chuột bằng cách cho chúng vào một chiếc hộp tạo cảm giác an toàn.

Nhóm nghiên cứu sau đó tập trung vào các tế bào não, nơi lưu trữ ký ức của các con chuột về vị trí hiện tại của chúng và lập trình cho những tế bào này "bật mở ký ức" khi có ánh sáng. Ngày tiếp theo, họ cho các con chuột vào một chiếc hộp thứ hai và sử dụng các xung ánh sáng để tái kích hoạt ký ức của ngày trước đó.

Trong khi ký ức được tái hiện, các nhà nghiên cứu cho những con chuột trải qua sốc điện nhẹ. Đúng như kỳ vọng, việc sốc điện đã làm thay đổi ký ức của những con vật thí nghiệm, khiến chúng trở nên hoảng sợ khi được đưa trở về hộp an toàn ban đầu. Tình trạng này xảy ra bất chấp việc các con chuột không phải chịu thêm bất kỳ sốc điện nào ở chiếc hộp này.

Theo nhóm nghiên cứu, kết quả thu được đồng nghĩa với việc ký ức của các con chuột về chiếc hộp an toàn đầu tiên đã bị thay đổi để gắn nó với việc bị sốc điện. Nói một cách khác, một ký ức giả đã được cấy ghép vào bộ não chuột thành công. Các thí nghiệm cũng ám chỉ rằng, ký ức giả và thật cùng kích hoạt nhiều vùng não giống nhau, gây khó khăn trong việc phân biệt.

Nhóm nghiên cứu hy vọng, công trình của họ sẽ giúp hé lộ cách các ký ức giả hình thành trong bộ não người. Điều này có thể hữu ích tại các phòng xử án, nơi những ký ức nhầm lẫn của nhân chứng có thể dẫn tới các phán quyết sai lầm.

Do sự khác biệt rất lớn giữa người và chuột nên các chuyên gia tin, ít có khả năng kỹ thuật trên có thể bị khai thác để khiến ai đó tin mình là một thực thể khác hoặc tẩy xóa những ký ức đau buồn. Tuy nhiên, nó có thể được ứng dụng cho những thao túng nhỏ hơn, chẳng hạn như khiến những người nghiện hút thuốc quên mình từng "ghiền" thuốc lá.

Tuấn Anh(Theo Daily Mail, BBC)
Posted by Unknown

Saturday, July 20, 2013


        Ngô là loại cây lương thực nuôi sống gần 1/3 số dân trên toàn thế giới. Bên cạnh giá trị lương thực, cây ngô còn là cây thức ăn gia súc quan trọng. 70% chất tinh trong thức ăn hỗn hợp là từ ngô. Cây ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua rất tốt cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là bò sữa. Những năm gần đây cây ngô còn là loại cây thực phẩm được ưa chuộng. Người ta dùng bắp ngô bao tử để làm rau cao cấp...

Link download: Cây ngô, kỹ thuật thâm canh tăng năng suất 
Pass: blogsinhhoc

Posted by Unknown
Qua nghiên cứu, loài sâu này có thể tái sinh lại phần đầu bị đứt, đặc biệt hơn là nó vẫn giữ nguyên trí nhớ trong bộ não mới.
Các nhà nghiên cứu ở trường ĐH Tufts (Mỹ) đã xác định được một loài sâu nhỏ màu vàng được biết đến là sâu Planarian, vốn đã được nghiên cứu rất lâu về các đặc tính tái sinh của nó. Qua đó, các nhà khoa học nhận thấy, loài sâu này có thể tái sinh lại phần đầu bị đứt nhưng điểm đặc biệt là nó vẫn giữ nguyên trí nhớ trong bộ não mới.

Loài sâu Planarian


Theo đó, sau khi loài sâu này bị cắt đứt lìa đầu, phần cơ thể còn lại sẽ tái sinh một bộ não mới và có thể học lại các kỹ năng bị mất một cách nhanh chóng.

Các nhà khoa học đã kiểm tra bộ nhớ của loài sâu Planarian bằng cách đo khoảng thời gian chúng tiếp cận thức ăn trong môi trường có kiểm soát. Mặc dù loài sâu nhỏ này không thích những không gian mở và nhiều ánh sáng, nhưng nó được tập để làm quen với điều đó và dần tiến về chỗ có thức ăn.

Ngay cả sau khi bị cắt lìa đầu, những con sâu đã trải qua quá trình luyện tập vẫn có thể vượt qua nỗi sợ hãi về không gian, ánh sáng. Chúng bắt đầu ăn và ăn nhanh hơn nhiều so với những con sâu chưa được đào tạo. Tuy nhiên, trí nhớ không quay trở lại ngay lập tức. Chúng vẫn cần phải có sự nhắc lại những kiến thức trước đó đã được học bởi nó không chỉ được học một bài học duy nhất.


Lý do để giải thích cho vấn đề này tới nay vẫn chưa thực sự rõ ràng. Bộ não của loài sâu Planarian kiểm soát hành vi của chúng, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng, một phần trí nhớ của chúng còn được lưu trữ ở đâu đó trên cơ thể. Có thể, bộ não của sâu Planarian đã điều chỉnh hệ thống thần kinh của chúng và hệ thống này sau đó ảnh hưởng đến quá trình hình thành bộ não mới khi cái đầu mọc lại.

Hiện, các nhà nghiên cứu vẫn tiến hành nhiều thí nghiệm để tìm hiểu và lý giải cách mà loài sâu Planarian khôi phục bộ nhớ của chúng. Nghiên cứu được đăng trên tạp chí Experimental Biology.

Theo Trithuctre, The Verge
Posted by Unknown

Monday, July 8, 2013

Vùng biển Hoàng Hải của Trung Quốc đang bị tảo xâm lấn với một tốc độ cực kỳ nhanh, với gần 29.000km2 bị tảo bao phủ, theo các quan chức đại đương Trung Quốc ngày 4/7.
Các hình ảnh cho thấy những người đi tắm biển bơi lội và chơi đùa trong làn sóng xanh ở Thanh Đảo - không phải xanh biển như thông thường, mà là màu xanh lá cây của tảo. Trong khi đó, các xe ủi đất hoạt động liên tục để đưa hàng tấn tảo đi tiêu hủy.


Tảo bao phủ một khu vực tắm biển công cộng ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông - (Ảnh: AFP)


Ảnh chụp từ trên cao cho thấy một khu vực lớn ở vùng biển Thanh Đảo bị tảo bao phủ - (Ảnh: AFP)

Trên trang web của mình, Cục Quản lý đại dương Trung Quốc cho biết loài tảo này có tên khoa học là Enteromorpha prolifera. Nó đã xuất hiện cách đây một tuần và hiện lây lan đến một khu vực rộng 28.900km2.
Lần tảo xuất hiện lớn nhất trước đây là vào năm 2008, khi chúng lan rộng ra một vùng biển rộng 13.000km2.
Tân Hoa xã dẫn lời các quan chức Thanh Đảo cho biết đã loại bỏ được khoảng 7.335 tấn tảo.

Việc tảo xuất hiện thường có nguyên nhân do sự phong phú của các chất dinh dưỡng trong nước, đặc biệt phốt pho.

Trung Hoa nhật báo trích lời giáo sư Bao Xianwen từ Đại học Hải dương Trung Quốc nói: “Phải có thứ gì đó khiến môi trường biển thay đổi, nhưng hiện nay chúng tôi chưa có bằng chứng khoa học rõ ràng về việc này”.

Các loại tảo không độc hại và không gây hại đến chất lượng nước. Tuy nhiên, sự có mặt của chúng dẫn đến sự mất cân bằng trong hệ sinh thái thông qua việc tiêu thụ một lượng lớn oxy và tạo ra hydrogen sulphide.
Theo Tuổi Trẻ
Posted by Unknown

Tuesday, June 4, 2013

Dưới sự hỗ trợ của chính quyền Đài Loan (Trung Quốc), Trạm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp huyện Hoa Liên đã phát triển thành công gạo có màu sắc khác so với gạo thông thường hiện nay, vốn chủ yếu có màu trắng.

Theo mạng tin focustaiwan.tw, trạm nghiên cứu trên đã dành ra 7 năm để phát triển công nghệ bổ sung thêm màu sắc tự nhiên cho gạo bằng cách sử dụng các loại rau.


Gạo nhiều màu của Đài Loan. (Nguồn: focustaiwan.tw)

Các nhà khoa học của trạm nghiên cứu này cho biết các loại gạo màu có thể tạo thêm sự hứng thú và độ ngon miệng cho người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em.

Từ xa xưa, các quốc gia Đông Nam Á và Ấn Độ đã sử dụng các màu sắc tự nhiên như nghệ và các loại cỏ để tạo màu cho gạo.

Trạm nghiên cứu của Đài Loan nhấn mạnh việc sử dụng màu sắc tự nhiên của các loại rau để sản xuất gạo nhiều màu sắc là “rất an toàn và tạo được vị ngon".

Loại gạo màu không chỉ nhắm tới việc phục vụ các gia đình còn hướng tới các quán ăn muốn có những món ăn sáng tạo. Ngoài ra, loại thực phẩm này có thể được sử dụng để làm qua cho khách.

Trạm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp huyện Hoa Liên cho biết ban đầu, công nghệ này chỉ cho phép sản xuất gạo màu với khối lượng nhỏ. Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển, trạm nghiên cứu đã tạo ra công nghệ giúp sản xuất đại trà loại gạo màu này.

Sau khi được cấp bằng sáng chế, trạm này đã chuyển giao công nghệ trên cho khu vực tư nhân. Mỗi ngày, khu vực này có thể sản xuất khoảng 2 tấn gạo màu.
Theo Vietnam+ 
Posted by Unknown

Saturday, June 1, 2013

Download: 
Công nghệ gen để tạo cây chuyển gen nâng cao sức chống chịu đối với sâu bệnh và ngoại cảnh bất lợi

Mục lục

I. Danh sách các dòng cây chuyển gen vỡ các gen thu được trong đề tài

 

I.1. Danh sách các dòng cây chuyển gen

I.1.1. Danh sách các dòng cây bông chuyển gen

 

I.1.2. Danh sách các dòng cây hông chuyển gen

 

I.1.3. Danh sách các dòng cây hoa cúc chuyển gen

 

I.1.4. Danh sách các dòng cây lúa chuyển gen

 

I.2. Danh sách các gen thu được trong đề tài

 

I.2.1. Danh sách các gen phân lập được

 

I.2.2. Danh sách các gen sưu tập được

 

II. Các quy trình tạo được
II.1. Quy trình tách dòng gen vip3 mã hóa protein có hoạt tình diệt côn trùng

 

II.2. Quy trình tái sinh cây bông qua đa chồi

 

II.3. Quy trình tái sinh cây bông qua phôi soma

 

II.4. Quy trình chuyển gen trực tiếp qua ống phấn bằng vi tiêm

 

II.5. Quy trình chuyển gen cây hông

 

II.6. Quy trình nuôi cấy mô, chuyển gen vỡ đánh giá cây hoa cúc chuyển gen

 

II.7. Quy trình chuyển gen vỡo cây lúa nhờ súng bắn gen.

 

II.8. Quy trình chuyển gen vỡo lúa thông qua vi khuẩn Agrobacterium vỡ chọn dòng bằng manose đảm bảo tạo ra cây chuyển gen „sạch“, không chứa gen kháng kháng sinh.

 

II.9. Quy trình chuyển gen vỡo lúa thông qua vi khuẩn Agrobacterium vỡ chọn dòng kinh điển bằng kháng sinh hygromycin 

 

II.10. Quy trình Thử nghiệm sinh học tính kháng sâu đục thân hai chấm Scirpophaga incertulascủa các dòng lúa biến đổi gen Bt.

 

II.11. Quy trình nhận biết vỡ đánh giá cây lúa chuyển gen.

 

III. Những đóng góp khác trong đề tỡi
Pocket 1: Hỏi đáp về cây chuyển gen
Pocket 2: Sản phẩm công nghệ sinh học thực phẩm (hiện nay đang được bán trên thị trường)
Pocket 3: An toàn cho người tiêu dùng: Các thực phẩm chuyển gen có an toàn hay không
Pocket 4: Cây trồng chuyển gen vỡ môi trường
Pocket 5: Những lợi ích đã được ghi nhận của cây chuyển gen
Pocket 6: Công nghệ BT kháng côn trùng
Pocket 7: Dán nhãn thực phẩm GM
Pocket 8: Nghị định thư Cartagena về an toỡn sinh học
Pocket 9: Quyền sở hữu trí tuệ vỡ công nghệ sinh học nông nghiệp
Pocket 10: Công nghệ kháng thuốc diệt cỏ
Pocket 11: Đóng góp của công nghệ GM trong chăn nuôi
Pocket 12: Công nghệ chín chậm
Sách tham khảo: Anh toỡn sinh học: Đánh giá vỡ quản lý rủi ro các sinh vật biến đổi gen

 Công nghệ gen để tạo cây chuyển gen nâng cao sức chống chịu đối với sâu bệnh và ngoại cảnh bất lợi


Posted by Unknown

Wednesday, May 29, 2013

Các nhà khoa học Mỹ tuyên bố họ đã sử dụng kỹ thuật nhân bản để tạo ra những phôi thai người, một thành tựu vô cùng quan trọng đối với y học.

Shoukhrat Mitalipov, một nhà nghiên cứu của Đại học Y tế và Khoa học Oregon tại Mỹ, cùng các đồng nghiệp đã áp dụng kỹ thuật nhân bản vô tính để tạo ra phôi thai người, BBC đưa tin.

Kỹ thuật mà nhóm nghiên cứu áp dụng – chuyển nhân của tế bào thể (tế bào xôma) - cũng chính là kỹ thuật đã tạo ra con cừu nhân bản vô tính đầu tiên vào năm 1996. Họ lấy các tế bào da trên cơ thể một người trưởng thành rồi đặt nhân của tế bào vào bên trong trứng mà họ đã bỏ nhân. Sau đó họ dùng điện để kích thích trứng phát triển thành phôi thai.

Phôi thai người là nguồn cung cấp tế bào mầm cho giới khoa học. Ảnh: davidson.edu.
“Chúng tôi đã lấy tế bào gốc trên phôi thai và kiểm tra. Kết quả cho thấy những tế bào gốc đó có thể biến thành mọi loại tế bào – như tế bào thần kinh, tế bào gan và tế bào tim”, Mitalipov thông báo.

Tế bào gốc, hay tế bào mầm, có khả năng phát triển thành những loại tế bào khác. Với khả năng ấy, tế bào gốc là một trong những niềm hy vọng lớn lao nhất của giới y học. Nó có thể giúp con người phục hồi những tổn thương ở tim hoặc dây thần kinh cột sống. Hiện nay nhiều cơ sở nghiên cứu đang thử nghiệm liệu pháp phục hồi thị lực cho người mù bằng tế bào gốc.

Hiện nay giới khoa học lấy tế bào gốc từ phôi thai người. Tuy nhiên, một bộ phận học giả và dư luận phản đối việc khai thác tế bào gốc từ phôi thai vì cho rằng đó là hành động vô đạo đức. Vì thế, trong nhiều năm qua, các nhà khoa học đã cố gắng tìm kiếm những giải pháp để tạo ra nguồn cung cấp tế bào mầm khác để thay thế phôi thai.

  • Theo VnE
Posted by Unknown

Sunday, May 26, 2013

Một phát hiện mới của các nhà khoa học trong cơ thể kỳ giông có thể giúp con người tìm ra liệu pháp phục hồi những chân, tay cụt.

Nếu chân hay dây thần kinh cột sống của kỳ giông đứt, chúng có thể phục hồi nhờ khả năng đặc biệt của hệ miễn dịch. Thậm chí chúng còn có thể phục hồi các mô não hay mô tim.


Phát hiện của các nhà khoa học tại Đại học Monash mang đến hy vọng cho những người mất chân, tay. (Ảnh: nydailynews.com)

Để tìm hiểu khả năng tái sinh các bộ phận cơ thể của kỳ giông, một nhóm chuyên gia của Đại học Monash tại Australia đã phân tích hệ miễn dịch của chúng. Họ chú ý tới macrophage - một loại tế bào miễn dịch, Science Daily đưa tin. Khi nhóm nghiên cứu loại bỏ macrophage, những chi bị đứt của kỳ giông không thể phục hồi. Thực tế đó cho thấy macrophage chính là loại tế bào giúp kỳ giông phục hồi những bộ phận cơ thể đã mất.

"Phát hiện của chúng tôi giúp giới khoa học hiểu rõ hơn những điều kiện cần thiết cho việc tái tạo bộ phận cơ thể. Chúng ta có thể kiểm soát quá trình ấy và thậm chí có thể đưa nó vào cơ thể người", tiến sĩ James Godwin, trưởng nhóm nghiên cứu, phát biểu.

Ngoài ra, theo Godwin, việc nghiên cứu khả năng tái sinh của kỳ giông có thể giúp các nhà khoa học tìm ra những liệu pháp mới để điều trị bệnh tim, bệnh thận, tổn thương dây thần kinh và nhiều bệnh khác.

Một số nghiên cứu trước đây cho thấy nhiều loài động vật có khả năng phục hồi các chi bị đứt. Nhưng dần dần khả năng ấy biến mất trong quá trình tiến hóa.

"Rất có thể khả năng tái sinh vẫn ẩn nấp trong cơ thể người. Chúng tôi hy vọng các nhà khoa học sẽ đánh thức khả năng ấy. Họ cần biết chính xác quá trình tái sinh trong cơ thể kỳ giông để có thể tạo ra những liệu pháp tái sinh dành cho người", Godwin bình luận.
Theo VNE
Posted by Unknown

Thursday, May 23, 2013

Ngày 22/5, Trung tâm ung thư và Viện nghiên cứu ung thư Ba Lan thông báo các bác sỹ nước này vừa thực hiện ca ghép mặt cho một bệnh nhân bị tai nạn lao động mất gần như toàn bộ khuôn mặt.

Đây là ca ghép mặt đầu tiên ở Ba Lan, đồng thời là ca ghép mặt cứu mạng sống đầu tiên trên thế giới.


Người phát ngôn trung tâm nói trên, bà Anna Uryga, cho biết bệnh nhân được ghép mặt là nam thanh niên Grzegorz, 33 tuổi, bị máy cắt đá "xén" gần trọn khuôn mặt từ ngày 23/4 khi đang làm việc.

Các bác sỹ đã tìm cách ghép lại phần mặt bị cắt đứt cho nạn nhân nhưng không thành, chỉ có thể duy trì khả năng nhìn và một phần khuôn mặt cho nạn nhân này. Tính mạng của nạn nhân bị đe dọa do vết thương quá rộng và sâu.

Sau đó 2 tuần, các bác sỹ may mắn tìm được một nam thanh niên cũng ở độ tuổi 30 tình nguyện hiến tặng khuôn mặt của mình. Với sự đồng thuận của bệnh nhân bị cắt mặt và gia đình anh này, các bác sỹ đã tiến hành ghép mặt cho bệnh nhân trong ca phẫu thuật kéo dài 17 giờ ngày 15/5 vừa qua.

Hiện tại, bệnh nhân vẫn đang trong tình trạng nguy kịch do cuộc phẫu thuật kéo dài, song đã có thể tự thở và giao tiếp bằng đầu và tay. Các bác sỹ cho biết bệnh nhân sẽ ăn, thở, và nhìn được nhưng phải mất 8 tháng nữa mới khôi phục được hoàn toàn cơ vận động trên vùng mặt.

Năm 2005, các bác sỹ Pháp đã tiến hành ca ghép mặt đầu tiên trên thế giới, cho một phụ nữ 38 tuổi bị chó đớp mất một phần khuôn mặt. Kể từ đó đã có 20 ca khác được ghép mặt trên toàn thế giới, trong đó có Bỉ, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Mỹ.
Theo Vietnam+
Posted by Unknown

Tuesday, May 21, 2013


Tin vui lớn cho những phụ nữ đang gặp khó khăn trong việc mang thai và sinh nở: các nhà khoa học Anh đã tìm ra một kỹ thuật mới thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) có thể giúp tăng gấp ba lần cơ hội có em bé so với kỹ thuật IVF hiện nay.


Phóng viên tại Ottawa dẫn kết quả nghiên cứu đăng trên báo Bưu điện quốc gia (Canada) ngày 18/5 cho biết một kỹ thuật mới về thụ tinh trong ống nghiệm có thể giúp các cặp vợ chồng đang gặp khó khăn trong việc có con.

Kỹ thuật mới sử dụng biện pháp "time-lapse imaging" để có hàng nghìn bức ảnh của các phôi đang phát triển và xác định chính xác những người ít có khả năng hấp thụ các nhiễm sắc thể bất thường, sau đó mới thực hiện cấy phôi.

Thử nghiệm kỹ thuật này tại 4 bệnh viện lớn ở Anh, tỷ lệ thành công đã tăng lên rõ rệt, số ca thành công tăng từ 25% với phương pháp IVF thông thường hiện nay lên 75%.

Trưởng nhóm nghiên cứu, giáo sư Simon Fishel cho biết, đây là một trong những bước đột phá quan trọng trong ít nhất 35 năm qua, đặc biệt có giá trị đối với những bệnh nhân lâu nay đã cố gắng có được một đứa con bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Và kỹ thuật này cũng có thể mang lại hy vọng cho cả những phụ nữ lớn tuổi.
Theo Vietnam+
Posted by Unknown

Thursday, May 16, 2013

Bí quyết nhận diện nông sản Trung Quốc

Cà rốt, khoai tây, gừng, súp lơ, tỏi, hành tây... Trung Quốc đang bày bán tràn lan ở khắp các chợ TP HCM với vẻ ngoài bóng bẩy, căng mọng, thời hạn sử dụng lâu mà giá rẻ 20-50% so với hàng Đà Lạt.

Theo chia sẻ của các tiểu thương ở chợ Thị Nghè, Bà Chiểu, Thái Bình..., hàng nông sản Trung Quốc chiếm một nửa tới hai phần ba lượng bán ra mỗi ngày. Giới kinh doanh hàng ăn, nhà hàng chuộng loại này hơn bởi ưu điểm màu sắc đẹp, củ quả to tròn, dùng được lâu, có loại giá rẻ hơn hàng Đà Lạt một nửa.

Tuy nhiên, "chất lượng sản phẩm kém, thậm chí chứa nhiều dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, để cả tháng trời vẫn không hư hỏng nên chính tôi cũng không dám dùng loại này", chị Tám, tiểu thương chợ Thị Nghè nói. Khách tới mua, chị đều chỉ rõ cho khách biết đâu là hàng Trung Quốc, Đà Lạt để mọi người tự chọn lựa cho thực đơn gia đình.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Phó giám đốc Công ty quản lý và kinh doanh chợ đầu mối nông sản Thủ Đức lấy ví dụ, hành tây ở TP HCM chủ yếu là hàng Trung Quốc vì ở Việt Nam loại này khó trồng, nếu trồng được cho củ nhỏ và mẫu mã không đẹp.

Bí quyết nhận diện nông sản Trung Quốc

Bên trái là khoai tây Đà Lạt, vỏ mỏng nên khi đổ đống, các củ va chạm dễ bị tróc vỏ, ruột vàng, mắt khoai nhỏ, giá 30.000 đồng một kg. Khoai Trung Quốc (bên phải), củ to, mắt to, vỏ dày, bị sượng khi nấu chín, giá 25.000 đồng một kg.

Bí quyết nhận diện nông sản Trung Quốc

Cà rốt Đà Lạt (bên trái) da sần, màu cam nhạt, cuống lá còn nguyên, vị ngọt thanh tự nhiên, hiện có giá 22.000 đồng một kg. Ngược lại, cà rốt Trung Quốc (bên phải) da bóng láng, củ to, tròn đều, không cuống, màu cam đậm, vị nhạt, giá 15.000 đồng một kg.

Bí quyết nhận diện nông sản Trung Quốc

Trong hình là cải thảo Đà Lạt, 15.000 đồng một kg, bắp tròn trịa. Còn bắp Trung Quốc lá xanh đậm, thon dài, rẻ hơn hàng Đà Lạt 3.000 đồng.

Bí quyết nhận diện nông sản Trung Quốc

Súp lơ xanh của Đà Lạt (bên trái), còn lá và thân đầy đủ, vị ngọt đậm đà, giá 30.000 đồng một kg. Súp lơ Trung Quốc bị cắt mất thân và bọc trong bao xốp, rẻ hơn 5.000 đồng, chất lượng kém hơn so với hàng Đà Lạt, để cả tháng vẫn trắng tươi, không bị hỏng.

Bí quyết nhận diện nông sản Trung Quốc

Bên trái là tỏi Bắc, vẻ ngoài xấu xí, các tép tỏi nhỏ, khó bóc vỏ, được bán giá 120.000 đồng một kg. Tỏi Trung Quốc (bên phải ) tròn, to, mỡ màng, dễ bóc vỏ, giá 60.000 đồng nhưng không thơm nồng như hàng trong nước.


Hành Tây trong ảnh là hàng Trung Quốc, củ to, bóng, tròn và củ nào cũng có kích cỡ to đều như vậy. Giá 20.000 đồng một kg.

Bí quyết nhận diện nông sản Trung Quốc

Bên trái là gừng Việt Nam, lớp vỏ xỉn màu, nhiều rễ và nốt sần sùi, bẻ đôi củ sẽ thấy có đường gân bên trong, giá 30.000 đồng một kg. Còn bên phải là gừng Trung Quốc màu vàng nhạt, lớp vỏ nhẵn nhụi, căng mọng, củ to, đều, ít nốt sần sùi, được vệ sinh rất sạch sẽ, 20.000 đồng một kg. Gừng Trung Quốc đẹp hơn gừng trong nước nhưng mùi thơm thua xa.
Theo VNE


Posted by Unknown

Wednesday, May 15, 2013

Giới thiệu sách: Hóa sinh công nghiệp – Lê Ngọc Tú
Cuốn sách Hóa Sinh Công Nghiệp này được biên soạn không những làm tài liệu học tập cho sinh viên các ngành công nghệ thực phẩm, công nghệ sinh học và công nghệ hóa học mà còn có thể làm tài liệu tham khảo cho các kỹ sư, học viên cao học, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý có liên quan đến việc chế tác và xử lý nguồn nguyên liệu sinh học này. 

Nội dung cuốn sách bao gồm các phần như sau: 

1 - Cấu trúc và các tính chất của enzim tan và không tan. Các phản ứng enzim có quan hệ đến cấu trúc, trạng thái, màu sắc và chất lượng của các sản phẩm. 

2 - Cấu trúc, tính chất công nghệ cũng như khả năng chuyển hóa của các chất trong điều kiện tự nhiên cũng như trong các quá trình công nghệ. 

3 - Cơ sở hóa sinh của một số quá trình công nghệ tiêu biểu như quá trình bảo quản, quá trình khai thác, làm giàu và quá trình chế biến.

Cuốn sách sẽ đáp ứng được nhu cầu học tập và tham khảo của tất cả bạn đọc quan tâm. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Hóa sinh công nghiệp – Lê Ngọc Tú
 http://upfile.vn/dxe1

http://sinhhoc.blogspot.com,  Blog sinh học, https://www.facebook.com/sinhhocvn, https://www.facebook.com/CongNgheSinhHocVietNam
Posted by Unknown

Monday, May 13, 2013


Công nghệ sinh học 1: Sinh học phân tử và tế bào - Như Hiền, 230 Trang


Phần mở đầu. Công nghệ sinh học
- Công nghệ sinh học (CNSH) là một ngành sản xuất
- Giới thiệu một số ngành nghề CNSH

Phần 1. Sự ra đời và phát triển của sinh học phân tử
- Chương 1. Các đại phân tử sinh học và vai trò của chúng trong cơ thể sống
- Chương 2. Khái niệm về gen và hệ gen
- Chương 3. Di truyền và biến dị

Phần 2. Sinh học tế bào
- Chương 4. Tế bào, đơn vị tổ chức cơ bản của cơ thể sống
- Chương 5. Nhiễm sắc thể của tế bào, tổ chức chứa ADN
- Chương 6. Chu kỳ sống của tế bào
- Chương 7. Phân tử nguyên nhiễm
- Chương 8. Phân tử giảm nhiễm

Phần 3. Sinh học phân tử và tế bào đối với công nghệ sinh học
- Chương 9. Từ kỹ thuật gen đến công nghệ sinh học
- Chương 10. Từ kỹ thuật nuôi cấy tế bào đến công nghệ tế bào

Công nghệ sinh học là bộ môn tập hợp các ngành khoa học và công nghệ gồm: sinh học phân tử, di truyền học, vi sinh vật học, sinh hóa học, công nghệ học, nhằm tạo ra các quy trình công nghệ khai thác ở quy mô công nghiệp các hoạt động sống của vi sinh vật, tế bào động, thực vật để sản xuất các sản phẩm có giá trị phục vụ đời sống, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.

Các ĐH ở Việt Nam hiện đang đào tạo một số chuyên ngành như công nghệ vi sinh, công nghệ tế bào, công nghệ mô - công nghệ protein -enzym và kỹ thuật di truyền, công nghệ sinh học (CNSH) nông nghiệp, CNSH công nghiệp, CNSH môi trường, CNSH thực phẩm, CNSH y dược, tin - sinh học.

Sinh viên tốt nghiệp ngành này được công nhận là cử nhân hoặc kỹ sư, làm việc tại các lĩnh vực: y dược (chẩn đoán bệnh, chế biến thuốc, vắcxin); môi trường (xử lý môi trường, đánh giá mức độ độc hại của sản phẩm, xử lý chất thải...); nông - lâm - ngư - nghiệp (giống, bệnh, chất lượng); công nghiệp (lên men công nghiệp, vật liệu sinh học...

Nguồn: Internet
Tác giả: Nguyễn Như Hiền
Kiểu tập tin: PDF
Độ lớn tập tin: 38MB
Pass: Blogsinhhoc


http://www.mediafire.com/?ums0jbxpwbc3lwt



Posted by Unknown

Sunday, May 12, 2013

(Blog sinh học) - Liệu ngành sinh học tổng hợp có thể cứu thế giới hoang dã? Từ tái tạo các loài tuyệt chủng cho tới nguy cơ các loài siêu biến đổi gene.

Lĩnh vực phát triển nhanh chóng của ngành sinh học tổng hợp sẽ gây tác động gì tới bảo tồn thiên nhiên? Những thách thức về sinh thái và đạo đức bắt nguồn từ câu hỏi này sẽ đòi hỏi một cuộc đối thoại mới và tiếp tục giữa các thành viên của ngành sinh học tổng hợp và các cơ quan bảo tồn đa dạng sinh học, theo tác giả của một bài báo mới cho biết.

Theo bài báo, lĩnh vực sinh học tổng hợp - một ngành sử dụng DNA tổng hợp hóa học để tạo ra các sinh vật nhằm giải quyết các nhu cầu của con người - đang phát triển nhanh chóng, với hàng tỉ đô la được đầu tư hàng năm. Nhiều lời tán dương cho các hiệu quả của sinh học tổng hợp như: cung cấp các giải pháp tiềm năng cho vấn đề sức khỏe của con người, an ninh lương thực và các nhu cầu năng lượng. Nhưng người ủng hộ sinh học tổng hợp cũng nhìn thấy trong các công cụ của sinh học tổng hợp có thể sử dụng để chống biến đổi khí hậu và tình trạng thiếu nước.

Trong khi đó những người chỉ trích cảnh báo rằng các sinh vật biến đổi gene có thể gây ra mối nguy hại cho các loài bản địa và các hệ sinh thái tự nhiên. Các tác giả của bài báo khẳng định rằng, trong bất kỳ kịch bản nào, một cuộc đối thoại về cách sử dụng và hạn chế các phương pháp sinh học tổng hợp và các sản phẩm của sinh học tổng hợp phải được khởi đầu vì lợi ích của toàn xã hội và những người ra quyết định.

Bài báo được công bố trong tạp chí trực tuyến PLoS Biology. Các tác giả của bài báo  bao gồm: Kent Redford thuộc Hiệp hội bảo tồn động thực vật hoang dã và tư vấn Archipelago, Bill Adams thuộc Đại học Cambridge, và Georgina M. Mace thuộc trường Đại học London (UCL).


"Hiện tại, ngành sinh học tổng hợp và các cơ quan bảo tồn là khá xa lạ với nhau, mặc dù cả hai đều có rất nhiều mối quan tâm chung và mục tiêu tương tự", ông Kent Redford, tác giả chính của bài báo cho hay. "Một cuộc thảo luận mở giữa hai cộng đồng là cần thiết để giúp xác định các lĩnh vực hợp tác về một chủ đề mà có thể sẽ thay đổi mối quan hệ của loài người với thế giới tự nhiên".

Các tác giả của bài báo, cùng với các nhà khoa học và các nhà bảo tồn khác, sẽ thảo luận về những tác động tiềm năng của sinh học tổng hợp có thể có lên thế giới tự nhiên và bảo tồn tại Hội nghị sinh học tổng hợp và Bảo tồn, dự kiến diễn ra tại trường Clare ở Cambridge, Anh, từ ngày 9 - 11 tháng 4.

John Robinson, giám đốc cơ quan bảo tồn WCS, nói: "Sinh học tổng hợp và một lĩnh vực rất quan trọng và là một lĩnh vực đang phát triển mạnh, nhưng hậu quả của nó tác động lên đa dạng sinh học và bảo tồn hiện chưa được nghiên cứu rõ. Bằng cách đối thoại giữa sinh học tổng hợp và bảo tồn, chúng tôi hy vọng sẽ đạt được một sự hiểu biết về các cơ hội của sinh học tổng hợp - và các tác động tiềm ẩn - tới bảo tồn tốt hơn".

Đồng tác giả Bill Adams đến từ trường Đại học Cambridge, cho biết: "Chiến lược của chúng ta để bảo tồn các hệ sinh thái, loài và đa dạng di truyền, được xây dựng trong thế kỷ qua, bị thách thức bởi sinh học tổng hợp. Quan hệ mật thiết của lĩnh vực đang nảy sinh này cần phải được đưa vào các lý thuyết và hành động bảo tồn để các nỗ lực bảo vệ đa dạng sinh học có hiệu quả".
Các tác giả giải thích sự cần thiết cho các chiến lược mới trong cộng đồng bảo tồn để đối phó với những thách thức của sinh học tổng hợp. Họ nhấn mạnh năm vấn đề nảy sinh đòi hỏi phải thảo luận và quyết định chính sách của các nhà khoa học bảo tồn và những người đang hoạt động trong lĩnh vực này. Các vấn đề bao gồm:

- Các khả năng tái tạo các loài đã tuyệt chủng.

- Các sinh vật tổng hợp sẽ tương tác với các loài đang tồn tại như thế nào.

- Định nghĩa hiện tại của chúng ta cái được gọi là "tự nhiên" là gì.

- Sử dụng sinh học tổng hợp để sản xuất các dịch vụ tự nhiên đối với con người (ví dụ như hấp thụ carbon, kiểm soát ô nhiễm).

- Việc sử dụng của sự sống tổng hợp cho lợi ích riêng, như trong các ứng dụng cho các quy trình công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Sự cân bằng phải trả giá giữa rủi ro và thành tựu so với lợi ích công cộng và tính an toàn.

Georgina M. Mace thuộc Trung tâm nghiên cứu Đa dạng sinh học và môi trường, UCL, đồng tác giả của bài báo cho biết: "Các cuộc thảo luận giữa bảo tồn và sinh học tổng hợp là một điều cần thiết. Chúng ta cần có xem xét kỹ càng các vấn đề và các quyết định có thể làm thay đổi toàn bộ sự sống trên trái đất".
Phạm Thị Bích Thu (Sciencedaily)
Posted by Unknown
Cảnh tượng những cây phát sáng hai bên đường sẽ không chỉ xuất hiện trong các phim viễn tưởng nhờ một nghiên cứu tại Mỹ.

Việc cấy luciferase vào cây cối có thể khiến chúng phát quang. (Ảnh: Discovery)

Antony Evans, chủ của một doanh nghiệp công nghệ tại Mỹ, cùng nhà sinh học Omri Amirav-Drory và chuyên gia thực vật Kyle Tayler quyết tâm tạo ra một loại cây phát ra ánh sáng mạnh trong dự án mang tên Glowing Plant. Họ sử dụng luciferase, một loại protein có khả năng phá vỡ cấu trúc của nhiên liệu để tạo ánh sáng, Discovery đưa tin.

"Quá trình phá vỡ cấu trúc nhiên liệu của luciferase rất hiệu quả vì nó không tạo ra nhiệt", nhà sinh học Omri Amirav-Drory phát biểu.

Luciferase giúp đom đóm, nấm và một số vi khuẩn phát sáng. Cấy luciferase vào thực vật là quá trình tương đối phức tạp. Do thực vật lấy năng lượng trong tế bào để phát sáng nên khả năng thích nghi của chúng sẽ giảm so với những cây khác.

Các nhà khoa học trên đảo Đài Loan từng cấy những hạt nano vàng - còn được gọi là đèn LED sinh học - vào những cây thủy sinh để chúng phát sáng trong nước. Họ cũng muốn những cây đó trở thành công cụ chiếu sáng đường phố, song vẫn còn phải vượt qua một số thách thức trước khi đạt được mong muốn. Một nhóm nhà nghiên cứu của Đại học New York cũng tạo ra những cây phát quang, song cường độ ánh sáng của chúng khá yếu.
Theo VNE
Posted by Unknown

Friday, April 19, 2013

Các nhà khoa học Siberia vừa tìm ra một loại thuốc “cải lão hoàn đồng” độc đáo.

Dưới tác động của thuốc, các tế bào gốc sẽ nhiều hơn một cách đáng kể, cho phép tất cả các hệ thống và các cơ quan trong cơ thể làm việc hiệu quả hơn. Thử nghiệm trên động vật rất thành công và bắt đầu được thí nghiệm trên người.

Tác giả của loại thuốc mà con người tập trung tìm kiếm kể từ thời các nhà giả kim thuật xưa là nhóm các nhà khoa học tại Novosibirsk và Tomsk, có tác dụng rất tốt chống lại hiện tượng lão hoá, theo thông báo của Tạp chí mạng Medvesti.



Thuốc G5 của các nhà khoa học Siberia sẽ làm tăng số lượng tế bào gốc trong cơ thể.

Thuốc được tạm thời đặt tên G5 và đã được thử nghiệm với kết quả tốt trên động vật. Người ta chia chuột thí nghiệm làm 2 nhóm, trong đó nhóm 1 dùng thuốc và nhóm 2 để đối chứng. Khi chúng được 18 tháng tuổi, họ nhận thấy sự khác biệt rõ ràng: những con chuột nhóm 2 bắt đầu thể hiện sự già nua: rụng lông, giảm cân và mắc các bệnh thường gặp do tuổi tác trong khi đó, những con chuột nhóm 1 đến khi 30 tháng tuổi vẫn chưa thấy có các triệu chứng này.

Phân tích sự khác biệt, người ta thấy chuột nhóm 1 có số lượng tế bào gốc vượt trội so với chuột nhóm 2. Thông thường trong quá trình trưởng thành và lão hóa của số tế bào này giảm mạnh. Rõ ràng là nhờ G5 số tế bào gốc đã tăng khoảng 40%, giúp toàn bộ hệ thống của cơ thể thực hiện rất hiệu quả chức năng của mình.

Các nhà khoa học tin rằng ngoài tác dụng chống lão hoá, G5 còn tác dụng rất tốt trong điều trị các bệnh về gan, hệ thần kinh và phổi. Hơn nữa, nó sẽ đóng góp lớn vào việc cải thiện trí nhớ và như vậy, không chỉ kéo dài tuổi thọ mà kéo dài tuổi làm việc, hoạt động sáng tạo của con người.

Các thí nghiệm tiền lâm sàng trên người sẽ kết thúc vào mùa thu năm nay. Bước tiếp theo sẽ được thử nghiệm lâm sàng trên những người tình nguyện và có lẽ phải mất đến 2 năm để rút ra những kết luận chắc chắn trước khi đi vào sản xuất đại trà.
Blog sinh học - Theo Vietnamnet
Posted by Unknown

Wednesday, April 17, 2013

Tiền không mọc trên cây nhưng vàng thì có thể. Một nhóm nhà khoa học quốc tế đã tìm được cách phát triển và thu hoạch vàng từ các loại cây trồng.

Kỹ thuật khai thác vàng có tên gọi phytomining sử dụng cây cối để chiết xuất các hạt kim loại quý từ đất. Một số loài thực vật được trời phú cho khả năng thấm hút qua rễ và cô đặc kim loại chẳng hạn như niken, catmi và kẽm ở lá và rễ. Suốt nhiều năm qua, các nhà khoa học đã khám phá ra cách sử dụng những loại cây siêu hấp thụ (hyperaccumulator) này để loại bỏ chất ô nhiễm.

Tuy nhiên, trước đây, giới nghiên cứu chưa từng biết đến loại cây siêu hấp thụ vàng tự nhiên nào. Lí do là vì, vàng không dễ hòa tan trong nước nên cây cối không có bất kỳ cách tự nhiên nào để thấm hút các hạt kim loại quý này qua rễ của chúng.

"Trong những điều kiện hóa học nhất định, chúng ta có thể tạo ra tính tan cho vàng", Chris Anderson, một chuyên gia địa hóa chất môi trường thuộc Đại học Massey University ở New Zealand, nói.


Các nhà khoa học đã tìm được cách phát triển và 
thu hoạch vàng từ cây trồng. (Ảnh: Shutterstock)
Cách đây 15 năm, ông Anderson lần đầu tiên đã chứng minh có khả năng bắt các cây mù tạt hút vàng từ đất từng qua xử lý hóa chất và có chứa các hạt vàng.

Cơ chế hoạt động của kỹ thuật trên về cơ bản như sau: Tìm một loại cây sinh trưởng nhanh với số lượng lá trên mặt đất nhiều, chẳng hạn như cây mù tạt, cây hoa hướng dương hoặc cây thuốc lá. Trồng các cây đó trên đất có chứa vàng, thậm chí cả trên những đống chất thải hoặc bãi rác xung quanh các mỏ vàng cũ cũng tốt.

Khai thác vàng theo cách phổ biến hiện nay không thể trích lấy được 100% vàng từ các khoáng chất xung quanh, vì vậy một số vàng nhất định có thể bị lãng phí. Một khi các cây trồng phát triển tới chiều cao tối đa, nhóm nghiên cứu sẽ xử lý đất bằng một chất hóa học làm cho vàng hòa tan. Khi cây bay hơi, kéo hút nước lên và thoát ra ngoài thông qua các lỗ nhỏ trên lá của nó, quá trình này sẽ hút thấm cả nước chứa vàng từ đất lên và tích tụ trong sinh khối của cây. Sau đó, nhóm nghiên cứu chỉ việc thu hoạch vàng.

Vàng thu được tìm thấy trong thực vật chỉ là các hạt nano. Vì vậy, đây có thể là tiềm năng lớn cho ngành công nghiệp hóa chất, lĩnh vực vốn sử dụng các hạt nano vàng như vật xúc tác cho những phản ứng hóa học.

Ông Anderson nhận định: "Kỹ thuật phytomining vàng sẽ không thay thế các cách khai thác vàng truyền thống. Giá trị của nó nằm ở chỗ giúp xử lý, khắc phục hậu quả của các khu mỏ vàng bị ô nhiễm".
Các hóa chất được sử dụng để hòa tan vàng cũng kích thích cây cối thấm hút những chất gây ô nhiễm đất như thủy ngân, thạch tín và đồng - những chất gây ô nhiễm phổ biến trong rác thải ở khu mỏ vàng, có thể gây nguy hiểm tiềm tàng cho con người và môi trường.
Ông Anderson hiện đang bắt tay cùng các nhà nghiên cứu ở Indonesia để phát triển một hệ thống chống đỡ dành cho các thợ khai thác vàng thủ công, quy mô nhỏ để sử dụng kỹ thuật mới nhằm giảm sự ô nhiễm thủy ngân từ hoạt động của họ.
Tuy nhiên, một số nhà khoa học cảnh báo, các nguy cơ đối với môi trường đi liền với việc phát triển vàng có thể rất lớn. Xyanua và thiocyanate, những hóa chất độc hại thường được các công ty sử dụng để khiến vàng lộ ra khỏi vỉa đá, chắc chắn phải được dùng để hòa tan các hạt vàng vào nước trong đất. "Bản thân quá trình này đã có thể tạo ra các vấn đề môi trường", J. Scott Angle, nhà nông học đến từ Đại học Georgia (Mỹ), nhấn mạnh.
Theo Vietnamnet
Posted by Unknown

Tuesday, March 12, 2013



Blog sinh học: Theo thông báo của Tổ chức quốc tế về tiếp thu các ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp (ISAAA), năm 2012 đánh dấu mức tăng kỷ lục 100 lần về diện tích canh tác cây trồng công nghệ sinh học.



Nuôi cấy mô tế bào sản xuất khoai tây giống sạch bệnh.

      Số liệu này tăng từ 1,7 triệu ha vào năm 1996 - năm đầu tiên cây trồng công nghệ sinh học được đưa vào canh tác đại trà (thương mại hóa), lên 170 triệu ha vào năm 2012.

      Tại hội nghị quốc tế về Triển vọng cây trồng công nghệ sinh học toàn cầu năm 2012 do Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam và ISAAA tổ chức ngày 8/3, tiến sỹ Clive James, nhà sáng lập và là Chủ tịch ISAAA đánh giá, với mức tăng ấn tượng trên, cây trồng công nghệ sinh học trở thành công nghệ cây trồng được đưa vào ứng dụng nhanh nhất trong lịch sử cận đại.

Tiến sỹ Clive James đánh giá, Việt Nam là nước có tiềm năng ứng dụng ngô công nghệ sinh học trong khu vực châu Á, với diện tích khoảng 1 triệu ha.

Tuy nhiên, nếu Việt Nam không sớm khởi động chương trình ứng dụng đối với cây trồng công nghệ sinh học thì có thể sẽ bị các nước ở châu Phi vượt lên trước.

Tiến sỹ Clive James cho rằng hợp tác quốc tế tạo ra những cơ hội tốt nhất cho việc xóa đói giảm nghèo toàn cầu và thành công trong ngành nông nghiệp chính là ứng dụng công nghệ.

Theo ông Nguyễn Văn Tuất, Phó Giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, ngô là cây trồng đang được Chính phủ Việt Nam rất quan tâm và có tiềm năng để phát triển ứng dụng công nghệ sinh học.

Xu hướng phát triển này là tất yếu và đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực trên toàn cầu. Việt Nam sẽ nắm bắt những thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới để phát triển cây trồng công nghệ sinh học.
Báo cáo của ISAAA cho thấy Mỹ tiếp tục là nước có diện tích canh tác dẫn đầu với 69,5 triệu ha, với tỷ lệ áp dụng bình quân cây trồng công nghệ sinh học/tổng diện tích trồng là 90% đối với tất cả các loại cây trồng.
Brazil được ví như là động lực tăng trưởng toàn cầu khi năm thứ tư liên tiếp diện tích cây công nghệ sinh học tăng nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, đạt 36,6 triệu ha, tăng 21% so với năm 2011.

Đáng chú ý, năm 2012, diện tích trồng cây công nghệ sinh học ở các nước đang phát triển tăng nhanh gấp 3 lần và rộng hơn gấp 5 lần so với các nước phát triển (8,7 triệu ha so với 1,6 triệu ha).

Trong số 28 nước canh tác cây trồng công nghệ sinh học có 20 nước đang phát triển và 8 nước công nghiệp. Hai nước Sudan và Cuba là hai nước mới lần đầu tiên đưa cây trồng công nghệ sinh học vào canh tác trong năm 2012.

Trong giai đoạn 2013-2015 sẽ có một số cây trồng công nghệ sinh học mới; trong đó có 2 sản phẩm đã được phê chuẩn. Đó là đậu tương HT/IR mang đa tính trạng đầu tiên tại Brazil và ngô kháng hạn ở Mỹ trong năm 2013.

Theo tiến sỹ Clive James, năm 2015 được xác định là mốc chính cho việc thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ, giảm 50% số lượng người đói trên thế giới.

Việt Nam là nước đã sớm hoàn thành mục tiêu này, tương tự như một số vùng ở phía Đông Bắc của Brazil. Nếu ứng dụng công nghệ sinh học trong cây trồng thì sẽ đạt được những kết quả lớn hơn nữa.


Theo Vietnam+
Posted by Unknown

Thursday, March 7, 2013

Trong một nghiên cứu mới đây nhất, Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Mỹ (CDC) đã cảnh báo về một dòng vi khuẩn "khó trị" đang lan nhanh tại các cơ sở y tế của nước này, đe dọa đến sức khỏe của bệnh nhân và thậm chí có thể gây ra các nhiễm trùng không thể cứu chữa được.

Báo cáo trên được công bố trên ấn phẩm "Vital Signs" của CDC ngày 5/3. Theo các quan chức CDC, loại vi khuẩn chết người này là vi khuẩn enterobacteriaceae kháng lại kháng sinh carbapenem (CRE).
Enterobacteriaceae là một họ vi khuẩn đường ruột, gồm trên 70 loài trực vi khuẩn Gram âm, trong đó có khuẩn Ê.coli thường sinh sống trong cơ quan tiêu hóa.

Ảnh minh họa

Các nhà khoa học cho biết trải qua nhiều năm, một số vi khuẩn thuộc nhóm enterobacteriaceae có khả năng kháng lại kháng sinh carbapenem. Nhóm kháng sinh này được dùng một cách rộng rãi trong điều trị bệnh, đặc biệt có vai trò nhất định trong điều trị những trường hợp đa đề kháng có liên quan đến trực khuẩn Gram âm.

Tác giả của nghiên cứu trên cho biết các loại kháng sinh mạnh nhất mà họ sử dụng không có tác dụng với CRE, khiến bệnh nhân tử vong do nhiễm trùng nặng không thể chữa được. Báo cáo còn chỉ ra hơn một nửa số bệnh nhân đã chết sau khi bị nhiễm trùng máu bắt nguồn từ vi khuẩn này.

Các nhà khoa học còn cho biết loại vi khuẩn này rất dễ phân tán nhanh tại các cơ sở y tế, chủ yếu từ tay của các nhân viên y tế, sau đó truyền sang người bệnh, thậm chí cả những người khỏe mạnh. Nguy cơ nhiễm khuẩn CRE còn cao hơn đối với những bệnh nhân điều trị dài ngày tại bệnh viện, những bệnh nhân tiếp cận những phương pháp điều trị đặc biệt và những người già sử dụng dịch vụ y tá tại nhà.

Báo cáo trên còn dẫn chứng rằng trong 6 tháng đầu năm 2012, gần 200 bệnh viện và các cơ sở điều trị bệnh cấp tính dài hạn đã phải tiếp nhận ít nhất một trường hợp bị nhiễm vi khuẩn CRE. CDC còn cho biết thêm trong thập kỷ qua cơ quan này đã phát hiện một loại vi khuẩn thuộc nhóm CRE tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe của 42 bang.

Trước tình trạng này, Giám đốc CDC Tom Fraiden đã ra khuyến cáo các nhân viên y tế và đội ngũ y bác sỹ cần có chiến lược bảo vệ và phát hiện nhằm ngăn ngừa sự lan nhanh của vi khuẩn CRE. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng khuyên các bác sỹ sử dụng kháng sinh một cách sáng suốt hơn, bên cạnh thiết lập những khu điều trị đặc biệt, trong đó các dụng cụ y tế và nhân viên y tế chỉ tập trung điều trị bệnh nhân bị nhiễm CRE.
Theo Vietnam+
Posted by Unknown

Tuesday, March 5, 2013


Blog sinh học: Ebooks này là những công trình nghiên cứu nhiều năm của các tác giả vì vậy để ủng hộ tác giả, bạn nên mua sách in hoặc mua 1 cách chính thức

Các phương pháp phân tích ngành công nghệ lên men 
Chủ Biên: Lê Thanh Mai. Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội.
Giới thiệu về nội dung

Cuốn sách Các Phương Pháp Phân Tích Ngành Công Nghệ Lên Men được tập thể các cán bộ thuộc Bộ môn Công nghệ các sản phẩm lên men, Viện Công nghệ sinh học - Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội biên soạn.

Cuốn sách được chia thành 3 phần chính, gồm 15 chương:

Phần 1: Giới thiệu các phương pháp phân tích các nguyên liệu chính dùng trong sản xuất các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát, mì chính như hạt đại mạch, malt, các nguyên liệu chứa tinh bột, rỉ đường, hoa houblon, quả và nước.

Phần 2: Nêu các phương pháp phân tích kiểm tra hóa lý các sản phẩm lên men: bia, rượu, vang, rượu etylic, mì chính và chế phẩm enzym.

Phần 3: Các phương pháp phân tích vi sinh vật, từ phương pháp kiểm tra độ tiệt trùng, phương pháp định tính, định lượng vi sinh vật cho tới các phương pháp phân tích một số chỉ tiêu vi sinh vật trong các sản phẩm thực phẩm.

Download: Các phương pháp phân tích ngành công nghệ lên men

http://www.mediafire.com/?c7aqi0sbjbcalea
Pass: hieubio.tk

Nguồn: (st), http://sinhhoc.blogspot.com, Blog sinh học, 
https://www.facebook.com/CongNgheSinhHocVietNam
Posted by Unknown